Như
đã nêu trong Thư gởi Giám đốc Sở Y Tế Thành Phố Hồ Chí Minh Đại
biểu Quốc hội Phạm Khánh Phong Lan, thủa cuối những
năm 80 của thế kỷ trước tôi ở CIMMCO
International hoạt động cực mạnh trong cung cấp nguyên liệu dược bulk drug cho toàn quốc Việt Nam. Lúc ấy
Việt Nam vẫn dưới áp lực kinh tế của sự bủa vây dưới lịnh cấm vận thương mại của
Mỹ, mọi thanh toán nhập khẩu bằng USD từ hoặc đến Việt Nam bị cấm đoán trên
toàn thế giới và sẽ bị Mỹ tịch thu. Chỉ có CIMMCO International với thế lực của
Tập Đoàn Công-Kỹ-Kinh-Thương-Du-Tài Birla
Ấn Độ cùng các công ty của nó như CIMMCO
LTD Singapore, CIMMCO LTD Anh Quốc, CIMMCO LTD Đông Đức, CIMMCO LTD Nga, v.v.
(trừ CIMMCO Cuba, CIMMCO Kampuchia, và CIMMCO Nepal), đã phối hợp nhịp nhàng với
sự giúp sức bí mật của các Ngân Hàng HSBC Anh Quốc và BNP Pháp Quốc để cung cấp
trang thiết bị phụ tùng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất của tất cả các ngành kinh
tế quốc dân của Việt Nam từ bất kỳ xuất xứ nào mà Việt Nam cần có và vẫn có thể
thanh toán luồn lách cho CIMMCO bằng USD (hoặc bất kỳ đồng ngoại tệ mạnh chuyển đổi nào khác mà Việt Nam đang có như Đồng Bảng Anh, Đồng Đức Mã, Đồng Phật Lăng
Pháp, và Đồng Yên Nhật). Là công
ty nước ngoài duy nhất ở Việt Nam vào thời điểm chưa hề có Luật Đầu Tư, Luật
Doanh Nghiệp, Luật Lao Động, Luật Thuế Thu Nhập, v.v., và cũng là công ty hùng
mạnh của một nước hữu hảo cực kỳ đặc biệt với Việt Nam có đường dây chiến thuật
xé toang hàng rào cấm vận bủa vây tứ phía Việt Nam, CIMMCO International đã kinh doanh trên cả thành công ở Việt Nam
với mỗi hợp đồng ký với một công ty xuất nhập khẩu Nhà Nước thì luôn là hợp
đồng nhập “gối đầu” số lượng cho trọn năm tài khóa hoặc hợp đồng xây dựng nhà
máy “chìa khóa trao tay”, v.v., nên mỗi hợp đồng luôn có trị giá nhiều triệu
USD, cũng là lý do Việt Nam không hề thiếu thốn nguyên phụ liệu cho sản xuất –
kể cả sản xuất dược phẩm – và CIMMCO International cũng trở thành chủ nợ lớn
của các công ty xuất nhập khẩu Nhà Nước, giúp Hoàng Hữu Phước trở thành nhân
vật được tiếp đón niềm nở tại Vietcombank/Eximbank và Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố
Hồ Chí Minh/Thành Ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, cũng như tại các tỉnh có các nhà
máy công nghiệp do CIMMCO xây dựng và chuyển giao công nghệ.
Ngoài
bulk drug (tức nguyên liệu thí dụ như
bột Paracetamol đóng bằng thùng phuy nhập
về Việt Nam để các xí nghiêp dược phẩm đập viên ép vỉ) của Châu Âu theo tiêu
chuẩn Anh, CIMMCO International còn cung cấp các phụ liệu khác phục vụ bao bì
dược phẩm như giấy nhôm (đa số từ hãng Daihan
Eunpakgy Hàn Quốc), màng nhựa, vỏ nhộng, v.v., và kể cả thuốc viên thành
phẩm vào những thời điểm Việt Nam có nhu cầu khẩn cấp mà khan hiếm. Đây là lý
do tôi có quan hệ tốt đẹp với tất cả các nhà sản xuất dược hàng đầu Ấn Độ thời
ấy và qua họ đến các nhà sản xuất nước khác; và đương nhiên với thế mạnh bậc thầy tuyệt đỉnh về tiếng Anh duy nhất ở
Việt Nam, tôi nắm bắt được những kinh nghiệm đặc thù liên quan đến ngành dược
mà không bất kỳ ai trên toàn thế giới này có tương tự như kể ra dưới đây.
Sau
nhiều năm đóng đô ở Khách Sạn Majestic
số 1 Đồng Khởi, văn phòng tôi dọn sang phía đối diện là tòa nhà Seaprodex số 2 Đồng Khởi. Một hôm, có
một Việt Kiều Mỹ phone cho trợ lý của tôi là cô nữ sinh Đại Học Khoa Học Trần
Thị Thu Vân xin đăng ký được đến bàn chuyện kinh doanh dược với tôi. “Thương vụ”
hắn bàn với tôi là hắn sẽ sản xuất thuốc Tây (không hiểu sao Việt Nam gọi là
“tân dược”) ở Ấn Độ rồi tôi nhập về Việt Nam “ăn lời rất to”. Săm soi ngắm
nghía cái hộp giấy mẫu in sẵn màu mè hắn đem từ Mỹ sang, tôi thấy tên công ty,
địa chỉ công ty, hình lá cờ Mỹ, và dòng chữ nổi to đùng “Made in USA”. Tất
nhiên, nhà ái quốc Hoàng Hữu Phước còn khuya mới “làm ăn” với bọn giặc dù là giặc Việt hay giặc ngoại
hoặc giặc Việt-ở-ngoài.
Ở
nhà thuốc tây số 334 Phan Đình Phùng, Phú Nhuận, lúc ấy có một nữ sinh viên
Dược tóc ngắn nới giọng Miền Nam một mình đứng bán thuốc. Tôi là khách hàng của
cô trong 30 năm qua, mua rất thường xuyên, và đã mua thì mua với số lượng lớn
(mua chia cho mọi gia đình từ nhà Ba Má đến nhà các em, hoặc mua gởi về các
miền quê, hoặc mua để sẵn ở nhà với phương châm thà hết date thì hốt cho vào
bao bố vác bỏ xe rác chứ dứt khoát không để khi cần lại không có để dùng ngay
mà phải chờ chạy đi mua). Hiện cô là một dược sĩ kinh đoanh thành công với 5
nhân viên dược sĩ đàn em/dược tá bán hàng, còn nhà thuốc tay của cô nay khang
trang đầy đủ tiện nghi.
Tôi
nhớ lần đầu tiên đến mua thuốc ở tiệm của cô cách nay 30 năm, khi cô đon đả
chào giới thiệu “thuốc Mỹ này tốt lắm”, tôi đã bảo cô giới thiệu thuốc Mỹ khác,
rồi cuối cùng nói muốn mua thuốc Việt hoặc thuốc ngoại chứ không mua thuốc của
Việt Kiều hay ngoại tép riu. Cô đã rẩt rất ngạc nhiên không hiểu sao lại là
“Việt Kiều” và sao lại là “ngoại vô danh tiểu tốt”, rồi trố mắt nghe tôi giải
thích với những nội dung ngữ nghiên hàn lâm sau mà cô chưa từng nghe bất kỳ thầy
cô nào của cô ở Đại Học Y Dược giảng dạy tương tự:
1) Chỉ có thuốc Việt Kiều mới có tên nhà
sản xuất đặt theo công thức thuần Việt rất quê mùa;
2) Chỉ có thuốc Việt Kiều – hoặc thuốc
giả hay thuốc “dỏm” – mới có in dòng chữ “Made in USA” to tổ bố rất quê mùa;
3) Chỉ có thuốc Việt Kiều – hoặc thuốc
giả hay thuốc “dỏm” – mới có in hình lá cờ Mỹ rất quê mùa;
và
thời gian sau tôi còn nêu lên ý tiếp theo là
4) Tất cả những hãng thuốc nước ngoài
nào có chữ “Pharma’ đều là đám sinh
sau đẻ muộn, thiếu ánh sáng trí tuệ trong đặt tên, không thuộc đội ngũ nhà sản
xuất hàng trăm năm tuổi, nên chất lượng ắt cũng nớt non thiếu tháng.
Các
giải thích tương ứng cho 4 điểm ở trên như sau (Việt Nam hiện có khoảng 500
người là học trò của Hoàng Hữu Phước tại các trung tâm ngoại ngữ và các đại học
ở Thành Phố Hồ Chí Minh là có nghe về các điểm này):
1)
Đặt tên kiểu Việt là kiểu “khỏe re”
bằng cách nhanh tay lẹ chân chộp ngay tên của địa phương để khoe mẽ chiếm lĩnh
độc quyền vùng miền với sự vô tình hoặc thờ ơ dung dưỡng của Nhà Nước Việt Nam,
(địa danh chẳng hạn Saigontourist, Cholimex, Sobexim, v.v.,
và toàn quốc chẳng hạn như Vietnamtourism, Vinataba, Vinashin,
Vinalines, v.v. cứ như thể doanh nghiệp này là cấp độ cao nhất vì là toàn
quốc toàn dân toàn Việt Nam vậy) nên chỉ cần nghe Calipharco, Americo, v.v.
, là biết chủ nhân của “công ty dược California” là Việt Kiều, mà Hoàng Hữu
Phước tôi đây nắm thông tin trong lòng bàn tay biết tại Mỹ không hề có (i) nhà sản xuất dược nào là tầm cỡ danh
tiếng mà do “Việt Kiều” làm chủ cả, và (ii)
bất kỳ công ty thuộc bất kỳ lĩnh vực nào của người Mỹ không-gốc-Việt mà lại có tên địa danh thành phố Mỹ/tiểu
bang Mỹ lồng trong tên công ty của họ cả.
Các
công ty dược của người Mỹ – hoặc Âu Mỹ – có những cái tên rất ngạo nghễ kiểu Mỹ
như Johnson&Johnson, Pfizer, Merck & Co., AbbVie Inc., Bristol-Myers Squibb, Eli Lilly and Company, Biogen, Abbott Laboratories, Stryker
Corporation, Regeneron, Bayer HealthCare, Bausch & Lomb,
GlaxoSmithKline, v.v., thậm chí các công ty không hùng mạnh bằng và sinh
sau đẻ muộn hoặc hoạt động thu gọn vẫn đặt tên theo kiểu thuần Mỹ như nào là Puritan’s Pride hay nào là Nature’s Bounty, v.v. và v.v.
Vì vậy, Hoàng Hữu Phước của Việt Nam từ 1980 đến nay không bao giờ đến một phạc-ma-xi mà không xem kỹ hộp thuốc do tiệm chìa ra đễ từ chối mua bất kỳ thứ gì có chữ phạc-ma hay phạc-cô tức viết tắt của Pharmaceuticals hay PharmaceuticalCompany trong tên của “nhà sản xuất” cả.
2) Made in USA là dòng chữ in rất nhỏ cùng cỡ chữ với địa chỉ nhà
sản xuất và/hoặc nhà phân phối trên bao bì dược phẩm xuất xứ từ Mỹ. Chỉ có
thuốc Việt Kiều – hoặc thuốc giả hay thuốc “dỏm” – mới có in dòng chữ “Made in
USA” to tổ bố rất quê mùa do bộc lộ ý
muốn đập vào mắt người mua mà như vậy đã khinh thường người Việt là dân quê.
3) Hình Lá Cờ Mỹ: Chỉ có thuốc Việt Kiều – hoặc thuốc giả hay thuốc
“dỏm” – mới có in hình lá cờ Mỹ rất quê mùa do bộc lộ ý muốn đập vào mắt người
mua mà như vậy đã khinh thường người Việt là dân quê.
4) “Pharma” tất nhiên là từ xuất hiện của các công ty dược nước
ngoài sinh sau đẻ muộn, bắt đầu từ những công ty Việt Kiều, sau được các công
ty dược nhược tiểu ở Đông Nam Á bắt chước, rồi trở thành cái chữ xuất hiện tràn
lan khắp hang cùng ngõ hẻm của thị trường dược toàn cầu.
Tất
nhiên, một doanh nghiệp nào đó có tên “Xí
Nghiệp Dược Núi Tản” chẳng hạn hoàn toàn không sai nếu đặt tên kinh doanh
là Nui Tan Pharma hoặc Nui Tan Pharco tùy theo trí hóa cao hay
thấp của chủ nhân. Song, điều kỳ quái ở đây là ở vùng Núi Tản Sông Đà có bao cư dân và họ có quyền bình đẳng tuyệt đối
như nhau trong hưởng thụ văn hóa và kinh doanh làm giàu đoan chính, thế tại sao
chính quyền lại để cho cái tên “Núi Tản”
(hoặc “Núi Tản Viên”) thuộc quyền sở hữu độc quyền của một công ty dược để rồi
từ chối tất cả các đơn xin thành lập công ty dược của vạn người dân còn lại nếu
trong đơn của họ có ghi tên dự kiến là “Núi
Tản”? Tương tự, địa danh “Sài Gòn” nay đã tự dưng trở thành sở hữu độc
quyền của Saigontourist, và chục
triệu cư dân có hộ khẩu ở “Sài Gòn” bị tước mất quyền “khởi nghiệp du lịch thời
bốn-chấm-không” nếu dám hỗn láo mạo phạm vuốt râu hùm đặt tên doanh nghiệp “du
lịch” của mình có chữ “Sài Gòn” trong đơn xin gởi Sở Kế Hoạch & ĐầuTư Thành
Phố Hồ Chí Minh.
Giải phóng đất nước thống nhất giang san luôn khó khăn gian khổ, luôn cần đến mưu lược và lý
tưởng cùng vũ khí hủy diệt, và những công trạng lẫy lừng là danh dự luôn dành
cho những người chiến thắng mà thành công của họ là đã gây ra sự tàn phá trên
quy mô lớn nhất và khủng khiếp nhất, còn “xây dựng” trong thời chiến luôn thiên
hẳn về nghĩa bóng của ngôn từ như xây dựng đội ngũ, xây dựng lòng tin nơi nhân
dân, xây dựng “cơ sở trong lòng địch” mà tất nhiên “cơ sở” không phải là tòa
nhà vật chất cụ thể.
Song,
việc tái thiết kiến thiết đất nước Việt
Nam sau chiến thắng thì khó khăn gian khổ trên bình diện khác, hoàn toàn mới lạ
với người chiến thắng, hoàn toàn xa lạ với người chiến thắng, và luôn vấp phải 5 vấn nạn của
(a) không ai trong họ hiểu khó khăn gian
khổ của tái thiết kiến thiết vật chất cụ thể,
(b) không ai trong họ có kinh nghiệm tái
thiết kiến thiết vật chất cụ thể,
(c) không ai trong họ có lòng tin vào
lực lượng khác nên giao trọng trách tái thiết kiến thiết vật chất cụ thể chỉ cho
chính họ vốn đã có bao công trạng lừng lẫy xây dựng trừu tượng quy mô định tính
lớn và phá hoại cụ thể quy mô định lượng lớn,
(d) không có lòng tin vào lực lượng khác
nên giao trọng trách xây dựng chính sách
thể chế luật pháp tái thiết kiến thiết vật chất cụ thể chỉ cho chính họ với
niềm tin họ đã rất ưu tú trong xây dựng chính sách thể chế luật pháp tập
trung phá hủy làm sụp đổ tiềm lực tổng thể của quân thù, và
(e) nếu các lực cản của giải phóng đất nước thống nhất giang san
là những kẻ thù mà những chiến binh giải phóng lao tới hạ gục nhanh tiêu diệt gọn
để có nhiều hơn những vị anh hùng, những trang liệt sĩ; thì các lực cản của tái thiết kiến thiết quốc gia là những
thứ bôi trơn óng ánh màu hổ phách đầy mê hoặc mà vô số người có quyền lực trong
lực lượng giải phóng nhào đến ôm chầm mơn trớn vuốt ve để tạo nên nhiều hơn
những thằng những con tội phạm chốn pháp đình/tại ngục tù/trên các thông báo
truy nã toàn cầu của Interpol.
Chính
cái điểm dê (d) ở trên đã khuyến khích
lòi nhú ra cái VN Pharma và những thứ
tương cận từ sân trước, sân thượng, sân hông, và “sân sau”.
VN Pharma ư?
Thạc
sĩ Hoàng Hữu Phước cho rằng Chính Phủ Việt Nam từ 30-4-1975 tức lúc bắt đầu đại
nghiệp tái thiết kiến thiết quốc gia đến nay vẫn thiếu một đấng tham mưu đẳng
cấp thượng hạng nên mới cho phép một thứ xoàng xỉnh (thí dụ như “Pharma” là từ ngữ
đẳng cấp rất bình dân) được tự tiện mang cái chữ quan trọng của quốc gia (chẳng
hạn chữ “Việt Nam” hoặc “VN”) vào tên để nay có một VN Pharma – mà người bình
dân sẽ nghĩ ngay đến “dược phẩm đẳng cấp
quốc gia Việt Nam”, còn người hý hước sẽ nghĩ đến “Công ty Dược Vú Nở chuyên sản xuất kem xoa bóp vú” – để rồi hóa ra
cái công ty mà cái tên dễ được hiểu thành “công ty dược phẩm quốc gia Việt Nam”
ấy là cái tiệm của một dúm kẻ làm giả hồ sơ nâng giá nhập thuốc làm giàu khủng
bạo trên sức khỏe và sinh mạng của những người dân mà định mạng đã bắt họ vướng
bịnh nan y như án tử hình.
Giá
như luật do những “nghị sĩ” bị Đảng cưỡng ép phải vào Quốc Hội rồi dẫy nẫy
chống lại Đảng khi nằng nặc bám víu quyền lợi quyền hành quyền lực ở địa phương
chứ không chịu làm “chuyên trách”, đừng có các quy định ngu khùng rằng kinh
doanh dược phải có bằng cấp dược sĩ và lãnh đạo đại học phải có bằng tiến sĩ,
thì lẽ ra ngày nay chí ít thì ở Việt Nam ngành xuất nhập dược đã có ít nhất một
công ty còn ngành giáo dục đại học đã có ít nhất một trường đại học lừng danh
nêu gương sáng đạo đức kinh doanh cho hai cái ngành ấy, chứ có đâu mà nhục đớn
chề ê như cái trường Đống Đồ (hay Đống Đô) và cái công ty Vú Nở Phạc Ma thế này!
Hoàng
Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế
Tham khảo
các bài viết về chủ đề Y Khoa của cùng tác giả (theo thứ tự trước-sau về thời
gian):
Tất
cả những trẻ em hạnh phúc ở Âu Mỹ đều xem bố của chúng là những anh hùng (My Dad is my hero!).
Tôi
đã là một đứa bé hạnh phúc.
Tôi
xem Ba của tôi là một vị anh hùng dù ông là người đứng chỉ cao đến
vai tôi, không tham vọng vươn cao, luôn thanh liêm chính trực. Song, hơn tất cả
những trẻ em hạnh phúc ở Âu Mỹ từ khai thiên lập địa đến nay chưa hề xem mẹ của
chúng là gì, tôi xem Má của tôi là một bà
tiên thông tuệ dù bà học chữ chỉ đủ để biết thêu tên các con lên áo sơ mi
hoặc áo dài khi con còn ở tiểu học/trung học, và để đọc thư của các con gởi về
từ hải ngoại.
Đức
tính của vị anh hùng là dũng mãnh xả thân bảo vệ người yếu thế. Ba tôi đã xả
thân (theo nghĩa bóng) bảo vệ gia đình (vợ là phụ nữ nên thuộc cộng đồng yếu
thế, các con thơ dại nên cũng thuộc cộng đồng yếu thế, Hoàng Hữu Phước tiên sinh sinh thiếu tháng
nên càng ở thế yếu) tồn tại vững vàng an toàn tuyệt đối dưới chiếc ô dù của đạo đức thiên Khổng trong cơn mưa như trút
nước nặng hạt của bao bụi bẩn, bùn nhơ, mầm bệnh. Ba tôi cũng đã dũng mãnh xả
thân (theo nghĩa đen) bảo vệ những đứa bé gái trên dọc đường gió bụi.
Đức tính của bà tiên là dịu dàng xả thân bảo vệ người yếu thế. Má tôi đã dịu dàng xả thân (theo nghĩa bóng) bảo vệ gia đình tồn tại vững vàng an toàn tuyệt đối dưới chiếc ô dù của đạo đức thiên Khổng trong cơn mưa trút nước nặng hạt của bao bụi bẩn, bùn nhơ, mầm bệnh. Má tôi cũng đã dịu dàng xả thân (theo nghĩa đen) bảo vệ những người nghèo khó hoạn nạn trông xóm hay trên vạn nẽo quan san. Còn sự thông tuệ nơi bà là bà đã quá thông minh khi đặt lòng tin tuyệt đối không bao giờ suy suyển vào đạo đức thiên Khổng của cha mẹ và của chồng, thực hiện được đạo đức ấy, truyền được vào tâm trí của đàn con niềm tin vào đạo đức ấy, và làm cả gia đình được tôn kính tôn trọng trong cả cộng đồng dân cư nơi cư ngụ.
Tôi
xem Ba của tôi là anh hùng, và xem Má của tôi là bà tiên thông tuệ. Nhưng tôi
chưa bao giờ nói tôi xem Ba tôi hay Má tôi là thầntượng của tôi cả.
Thế tôi đã xem ai tại Việt Nam và trên thế giới là thần tượng của tôi để tôi bái phục? Chẳng bất kỳ ai cả. Tôi có thán phục vài ba người Việt Nam – trong đó có Lý Thường Kiệt,Hồ Chí Minh, và Nguyễn Phú Trọng, nhưng chưa hề thán phục bất kỳ ai thuộc huyền sử Tàu hay chính sử Tây dù đó là Quan Vân Trường, Trần Huyền Trang, Bill Gates, Khổng Tử, hay Albert Enstein, v.v., sá gì mấy thằng giặc A-Léc-Xăng-Đờ-Rốt hoặc Ríc-cha Ních-xơn. Chưa kể, “thán phục” và “bái phục” một ai không có nghĩa xem người đó là “thần tượng”. Còn mọi người thuộc giới “công nghiệp giải trí” như ca sĩ, diễn viên, nhạc sĩ, v.v., tôi đều xem như giới mà tôi bỏ tiền ra mua vé hay mua dĩa để chính tôi được họ phục vụ khi nào tôi “quởn” nên còn khuya mới có ai trong cái giới ấy khuynh loát được tâm trí của tôi để tôi bảo họ là thần tượng của tôi.
Song,
tôi vừa nghĩ mình vừa có thêm một nhân vật để thán phục và bái phục: đó là
Nguyễn Nguyệt Linh.
Cần
nói rõ Nguyễn Nguyệt Linh trong bài này hoàn toàn không phải là cô bé được nói
đến trong mấy cái trang web như Gia Đình
Việt Nam hay Báo Mới là hai trong
nhiều nơi đã “chạy tít online” rằng “Bé
Gái 6 Tuổi Viết Thư Gửi Các Trường Học Đề Nghị Không Thả Bóng Bay Ngày Khai
Giảng”. Làm gì có “bé gái 6 tuổi”
– tức mới học lớp 1 – nào ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam theo cái hệ
thống và chương trình giáo dục sai bậy của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
mà lại viết được thư như thế cơ chứ!
Lý do đơn giản vì duy nhất chỉ có học sinh tiểu học Hoàng Hữu Phước ở Việt Nam Cộng Hòa là học sinh tiểu học xuất sắc về viết văn làm trưởng lớp suốt 5 năm tiểu học rồi kiêm trưởng ban báo chí khi lên lớp 4 và lớp 5 (ngày xưa gọi là từ lớp Nhì đến lớp Nhất) trường Phan Đình Phùng, Quận 3, Sài Gòn, nghĩa là Hoàng Hữu Phước bắt đầu “viết văn làm báo” từ năm 9 tuổi thì vĩnh viễn không bao giờ có chuyện em bé 6 tuổi lớp 1 lại viết thư tâm tình trí tuệ tại Việt Nam hay trên thế giới tức giỏi hơn Hoàng Hữu Phước cả! Dứt khoát là vậy.
Vì
vậy, cần nói rõ ở đây rằng: người mà Thạc sĩ Hoàng Hữu Phước thán phục bái phục
là nữ sinh Nguyễn Nguyệt Linh học lớp 5 (tức chừng 10 tuổi) trường Marie Curie,
Hà Nội, chứ không phải bé “6 tuổi” nào đó tên Nguyễn Nguyệt Linh.
Nữ
sinh Nguyễn Nguyệt Linh học lớp 5 giỏi hơn nam sinh Hoàng Hữu Phước học lớp 5,
vì nữ sinh Nguyễn Nguyệt Linh viết về một điều của tuổi thơ ở Việt Nam hòa
quyện vào bầu không khí bao trùm địa cầu trong khi nam sinh Hoàng Hữu Phước chỉ
viết bình giảng tục ngữ ca dao và về lòng yêu nước.
Trong
thế giới nhiễu nhương tạp nhạp này, Nguyễn Nguyệt Linh trở thành một ngôi sao ngời
rạng.
Hiện
nay bọn báo chí không-ra-chi trên toàn thế giới đang rầm rộ đưa các thông tin
về cô bé 16 tuổi người Thụy Điển tên Greta Thunberg như sau:
(a) Greta Thunberg cách nay một năm
“biểu tình” một mình trước Quốc Hội Đan Mạch về biến đổi khí hậu;
(b) Ngày nay “biểu tình” của hàng triệu
người ủng hộ Greta Thunberg diễn ra trên toàn thế giới Âu Mỹ;
(c) Greta Thunberg vừa được mời phát
biểu trước các lãnh đạo Châu Âu về biến
đổi khí hậu; và
(d) Greta Thunberg tại Liên Hợp Quốc lên
án các chính phủ đã đánh cướp tương lai của nhân loại đối với đại nạn biến đổi khí hậu.
Nhà
chính trị Việt Nam đoan chính duy nhất hoạt động trên các diễn đàn quốc tế là
Hoàng Hữu Phước đã có các phản pháo bằng tiếng Anh trên Twitter chống lại bọn lợi dụng Greta Thunberg với các ý chính như
sau:
(a) Ngay cả gia đình Greta Thunberg,
hàng trăm nghị sĩ Thụy Điển, dân cư thủ đô,
cũng không ai ủng hộ cô, nên mới có chuyện cô “một mình” ngồi cạnh một ba-lô
và một tấm bảng “biểu tình”;
(b) Nhiếp ảnh gia chụp hình Greta
Thunberg ngồi một mình đã không điện thoại báo gia đình cô, báo cơ quan cảnh
sát, mà chạy bay về tòa soạn để “post” ảnh gây chấn động địa cầu, bỏ mặc cô bé
“biểu tình” có nguy cơ trở thành nạn nhân của một vụ cưỡng dâm có thể xảy ra;
(c) Vậy liệu bức ảnh được chụp ấy có
phải đã được dàn dựng công phu với gia đình cô ấy đứng sau lưng “nhiếp ảnh
gia”;
(d) Thế quý vị “làm chính trị”, vậy cách
nay một năm quý vị có ai “biểu tình một mình” như Greta Thunberg không, nghĩa
là cả đám quý vị “làm chính trị” mà chẳng có ai nghĩ gì về vấn nạn biến đổi khí
hậu hay sao mà khi thấy có Greta Thunberg xuất đầu lộ diện là quý vị vội “ăn
theo” đăng đàn tuyên bố hung hăng để kiếm phiếu bầu hay sao vậy; và
(e) Hỡi cháu Greta Thunberg yêu quý, có
vô thiên lủng thứ gây hại cho sự biến đổi khí hậu, từ xe cộ, máy điều hòa không
khí, máy bay, tàu thủy, hàng không mẫu hạm, chăn nuôi gia súc và thú cưng, sản
xuất thực phẩm, sản xuất thép, sản xuất xi-măng, cho đến thủ nghiệm vũ khí, thử
nghiệm thuốc men, tiêu hủy vũ khí, tiêu hủy thuốc men, du hành vũ trụ, v.v. và
v.v. Vậy cháu muốn chống cái nào và lờ đi cái nào đây?
Như
vậy,
a–
trong khi Greta Thunberg nữ sinh lớp 9 của Thụy Điển mặt mày hung tợn nhăn nhó
hung hăng gằn giọng phát biểu nảy lửa chung chung cứ như đang được cha mẹ hoặc
một thế lực nào đó mớm ý dọn đường cho đại cuộc trở thành một nữ chính trị gia
tầm cỡ Thủ Tướng Đức (German Chancellor)
Angela Merkel sau hai năm nữa đủ 18 tuổi; và
b–
được báo chí Việt Nam nhơi lại, tụng ca thành nào là “nhà hoạt động”, nào là “biểu
tượng chống biến đổi khí hậu của thế hệ trẻ”, nào là “đại diện cho nhiều triệu người trên thế giới”, nào là “nhà đấu tranh cho nhân quyền”, nào là “xứng đáng chogiải Nobel vì Hòa Bình”, thậm chí nhắc đi nhắc lại cụm từ “nữ sinh lớp 9 bỏ học để biểu tình nâng cao
nhận thức về sự nguy cấp của biến đổi khí hậu”, và cụm từ “kêu gọi giới trẻ xuống đường”, v.v. và
v.v., cứ như thể muốn tác động vào giới trẻ Việt Nam rằng hãy thực tập xuống
đường cho quen dần với “thế giới” đi, để sau này làm chính phủ Việt Nam phải đổi
thay vì chính phủ “có tội”; mặc dù
c– Hoàng Hữu Phước mới là người đã trên thực tế nhận ra trước tất cả người Việt Nam về đại nạn ô nhiễm môi sinh nên đã thường xuyên công khai chống cái gọi là “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” (do hoàn toàn không thấy có các hạng mục xử lý chất thải/nước thải tại tất cả các nhà máy dệt nhuộm, các nhà máy xi măng, các nhà máy luyện cán thép, các nhà máy thực phẩm, các nhà máy dược phẩm, v.v. tại Việt Nam mà Hoàng Hữu Phước của TICO LTD (Japan) và CIMMCO International (India) đã từng đến thăm để điều nghiên về nhu cầu trang thiết bị và đầu tư trong cuối thập kỷ 80 và nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước), cũng như chống “phát triển ngành công nghiệp không khói” (do hoàn toàn thất vọng khi thấy vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước các đầu não tham mưu của Đảng chỉ biết mạnh miệng hăng hái vô tư như trẻ nít nói về SSS tức Sea-Sun-Sex tức phát triển du lịch dựa trên thế mạnh về Biển, Nắng và Đĩ, mà chẳng ai biết “đĩ” có do Nhà Nước đầu tư đào tạo kiểm tra chất lượng hay không và rằng du lịch mà lấn đến đâu thì môi trường hủy hoại đến đó), đồng thời chống xuất khẩu gỗ tròn gỗ xẻ wood log & timber từ lúc nhận bản chào giá của Savimex (do từ “lớp 5” tiểu học ở Việt Nam Cộng Hòa đã biết rằng tàn phá rừng sẽ tàn hại môi trường gây lũ lụt sát hại nhân dân), và luôn chống phát triển thủy điện (do biết Việt Nam hoàn toàn không có các kỹ sư và nhà quản lý đức tài nào, các đại họa sẽ ra sao khi núi rừng bị tàn phá, dòng chảy bị can thiệp, và bản thân đập thủy điện bị vỡ vì bất kỳ lý do nào); thế nên
d–
Hoàng Hữu Phước cho rằng biến đổi khí hậu là do tác động của sự hủy hoại môi
trường và ô nhiễm môi sinh từ các hoạt động sản xuất công nghiệp rầm rộ đại quy
mô của các cường quốc và các hoạt động sản xuất công nghiệp lạc hậu của các
quốc gia nhược tiểu nên (i) không
bất kỳ công dân Âu Mỹ nào – kể cả nữ sinh lớp 9 Greta Thunberg của Thụy Điển –
có quyền lên tiếng về vấn nạn biến đổi khí hậu với tư cách “lương tri nhân
loại” vì chính đất nước của Greta Thunberg và bọn tương cận Thụy Điển đã góp
phần vào vấn nạn ấy để nhanh chóng trở thành cường quốc kinh tế nhằm cung cấp
cho đám trẻ như Greta Thunberg cuộc sống viên mãn; (ii) các nước Âu Châu sống bám vào Mỹ một cách đê tiện và hèn hạ như
đã bị Donald Trump vạch mặt như không đóng góp ngân sách cho NATO, được miễn
thuế xuất khẩu vào Mỹ nhưng đánh thuế cao hàng hóa nhập từ Mỹ, nên tất nhiên
nhao nhao phản đối việc Donald Trump rút ra khỏi Thỏa Thuận Chung Paris trong khuôn khổ UNFCCC khiến Châu Âu mất
phần tài trợ khổng lồ của Hoa Kỳ cho các chương trình thong thả xa xỉ nghiên
cứu của EU về vấn đề cấp bách của biến đổi khí hậu; nên (iii) Việt Nam hãy vì chính sự sinh tồn của Việt Nam mà chấn chỉnh
lại hoạt động sản xuất, du lịch, v.v. cũng như mỗi nước hãy tự chủ động để
chứng minh bản thân là một chính phủ có trách nhiệm với chính sự tồn vong của
dân tộc mình, thay vì vô lý vô đạo vô duyên vô trí chống việc Donald Trump khạc
nhổ vào bản Thỏa Thuận Chung Paris trong
khuôn khổ UNFCCC;
mà
với tất cả những điều trên thì Hoàng Hữu Phước cho rằng chỉ có Nguyễn Nguyệt
Linh của Việt Nam mới nêu một vấn đề cụ thể, hoàn toàn khả thi, cực kỳ chính
xác, từ một nội hàm đúng sát với phát triển tư duy sinh học chan hòa tình cảm
trong sáng thiết tha của một nữ sinh lớp 5 đối với một thú vui vốn bản thân luôn
thuần quyện với chính tuổi thơ: các quả bóng bay đầy màu sắc mang dấu vết đặc
trưng văn hóa, tuổi thơ, và hạnh phúc.
Những
quả bóng ấy cũng đã hình thành cốt truyện tuyệt diệu của một phim hoạt hình
khổng lồ tuyệt vời “Up” của Walt
Disney ngự trị trong lòng tất cả trẻ em và phụ huynh
Kêu
gọi sự lưu tâm của người lớn đến vấn đề những quả bóng bay tiến đến vứt bỏ hẳn
việc thả bóng bay, Nguyễn Nguyệt Linh can đảm rứt bỏ khỏi lòng mình một thú vui
thuần khiết trẻ thơ của một hạnh phúc nhỏ nhoi: được cha mẹ dẫn dạo tung tăng nơi công viên với cổ tay buộc sợi dây có
quả bóng bay mà mẹ cha dã chuộng chìu mua cho con trẻ. Rời xa quả bóng bay
chính là hành động hy sinh cao cả mà chỉ có lòng hướng thượng tự thân, lòng
nhân hậu với tha nhân, lòng nhân từ dành cho muôn loài, và sự nhân văn mà bản
thân chỉ khi vượt lên khỏi tầm vóc của tuổi tác nớt non mới thấu hiểu được những
thông tin tiếp nhận được từ truyền thông về vấn nạn biến mất của các chủng loài
đa dạng sinh học, sự biến dạng của bề mặt Trái Đất từ những can thiệp thô bạo
của con người cho các công trình thủy điện và phát triển du lịch hay sản xuất,
mà tất cả tác động đến sự biến đổi khí hậu, để từ đó có những khắc khoải muộn
phiền thố lộ tâm tư.
Khi
con người thấu thị Hoàng Hữu Phước nhìn những chùm bóng bay, ông chỉ nghĩ hạn
hẹp đến việc an nguy của các chuyến bay và các đường truyền tải điện. Đó là vấn
đề an nguy của những hành khách sử dụng đường hàng không, và an nguy của nguồn
điện cho dân sinh và phát triển kinh tế. Ông không có được trình độ tư duy nhân
hậu nhân văn bằng được như Nguyễn Nguyệt Linh đã có: vấn nạn Nguyễn Nguyệt Linh nghĩ đến là sự sinh tồn của loài vật từ ô
nhiễm môi trường mà vấn nạn này cũng quan hệ nhân-quả rất rõ ràng và cụ thể
nhãn tiền đến sự sinh tồn của cả nhân loại. Nguyễn Nguyệt Linh không đỗ
trách nhiệm cho ai. Nguyễn Nguyệt Linh không vung nắm đấm như Greta Thunberg kết
tội các nguyên thủ quốc tế mà nội hàm đương nhiên có cả nguyên thủ Việt Nam. Nguyễn
Nguyệt Linh không hung tợn đốp chát chống nhà ái quốc vĩ đại Donald Trump tại
Liên Hợp Quốc như Greta Thunberg. Sự việc do Nguyễn Nguyệt Linh nêu lên là sự
việc nhỏ nhưng hoàn toàn khả thi đối với Nguyễn Nguyệt Linh bằng cách hy sinh
quyền hạnh phúc tung tăng với quả bóng bay và cũng có thể trở thành khả thi đối
với các trường học nào nhận được nơi Nguyễn Nguyệt Linh sự lay động lòng người,
mà một khi đã giải quyết được nhờ tính khả thi đó thì không có lý gì mà không
có thể nói rằng từng vấn đề một lớn hơn quả bóng bay rồi cũng sẽ được tiệm cận,
xử lý, ổn thỏa, ổn định. Biến đổi khí hậu được cho là phần lớn từ tác nhân của ô
nhiễm môi trường. Quả bóng bay tưởng chừng vô hại nhưng tiềm tàng khả năng góp
phần không nhỏ vào vấn nạn ô nhiễm môi trường. Và quả bóng bay góp phần gây hại
cho biến đổi khí hậu. Một thứ nhân-quả giản đơn như một lẽ chân lý tuy cao vời và
xa vời vẫn hoàn toàn thích hợp với tư duy trẻ thơ. Đó là điểm khiến Nguyễn
Nguyệt Linh đúng đắn hơn, dễ thương hơn, thuyết phục hơn, gây xúc động hơn nơi
lòng người có-trí-hóa-cao.
Rồi
sẽ có những nhà trường cho rằng thế thì hãy đổi thành những quả bóng không bay
để sau các buổi lễ sẽ chọc thủng tất cả rồi cho vào thùng rác có dán nhãn phân
loại rác.
Thế
thì sao không làm như thế này nhỉ:
1- Mỗi trường tiểu học và trung học tặng quà cho mỗi học sinh trong ngày
Lễ Tựu Trường;
2- Món quà ấy là những chiếc dù đơn sắc mang tính biểu tượng của sự chở
che từ kiến thức, sự bảo vệ của ngành giáo dục, sự vững tay nắm bắt nắm giữ
kiến thức, sự nâng niu trân trọng những gì mà nền giáo dục nước nhà dành cho,
tốt hơn nhiều so với việc phát cho học sinh chiếc bóng bay vô nghĩa;
3- Chính vì là quà tặng mang tính biểu tượng nên phải đơn giản, nhỏ, và
nhẹ, với kích cỡ nhỏ gọn như đường kính 40cm, đẹp rực rỡ nhưng không là gánh nặng
chi phí cho nhà trường;
4–
Chính vì là quà tặng mang tính biểu tượng nên có in chữ thật nhỏ trên dù chi
tiết tên trường và niên khóa để học sinh lưu trữ như kỹ vật chứ không để sử
dụng che nắng che mưa và không là thứ để nhà trường quảng cáo;
5–
Chính vì là quà tặng mang tính biểu tượng nên phải có màu đơn sắc như các quả
bóng bay, tuyệt đối tránh việc nhà trường “phát huy sáng kiến” tạo hoa văn để
tạo sự khác biệt giữa trường nhà với trường bạn;
6–
Vào buổi Lễ Tựu Trường – tức Lễ Khai Trường cho năm học mới – các học sinh tập
trung trên sân đều giương dù lên tạo cảnh đẹp rực rỡ nếu nhìn từ trên cao
xuống;
7–
Khi xong phần nghi lễ chính thức, có thể phát hiệu lệnh để các học sinh tung dù
lên không – như học sinh trong lễ tốt nghiệp tung mão lên không – rồi chụp lại với nhận
thức rằng chiếc dù nào màu sắc cũng đẹp và chiếc nào mình chụp được từ rừng dù
tung lên rơi xuống mới là chiếc làm vật kỷ niệm trên kệ nơi góc học tập ở nhà
cho mỗi năm học của mình; và
8–
Mỗi trường cũng có thể treo dù giăng ngang sân trường như ảnh dưới đây và sau
phần nghi lễ sẽ là thời điểm cắt dây để dù (dù nhỏ và nhẹ) rơi xuống cho học
sinh chụp lấy thay vì phát cho mỗi học sinh khi vừa bước vào cổng trường dự lễ.
Nguyễn
Nguyệt Linh đương nhiên cao quý hơn Greta Thunberg.
Nguyễn
Nguyệt Linh thua Greta Thunberg chỉ ở chỗ Greta Thunberg có trò dàn dựng của
truyền thông và sự tận dụng thời cơ ăn theo của bọn đầu cơ chính trị và của cả
bọn thất nghiệp và đám trẻ ham vui đông vô kể không biết làm gì nên xuống đường
la lối cho có miếng ăn (phát miễn phí ở nơi tụ tập) và vé xe buýt.
Nguyễn
Nguyệt Linh còn thua Greta Thunberg ở chỗ Greta Thunberg không nói tiếng Việt.
Nguyễn
Nguyệt Linh có tấm lòng. Nguyễn Nguyệt Linh có khả năng diễn đạt giỏi bằng tiếng
Việt. Đó luôn là cơ sở để Nguyễn Nguyệt Linh giỏi tiếng Anh – theo kinh nghiệm
và biện luận thuyết của Hoàng Hữu Phước về “học giỏi Tiếng Anh”.
Nguyễn
Nguyệt Linh không cần – và không nên phí thời gian – quan tâm đến Greta
Thunberg hay những cái phiếm phù mà thiên hạ đang ngợi ca Greta Thunberg. Đơn
giản vì Nguyễn Nguyệt Linh thuộc một đẳng cấp khác, cao quý hơn nhiều. Đơn giản
vì Greta Thunberg sẽ y như quả bóng bay màu sắc rực rỡ với sự tồn tại hoàn toàn
vô nghĩa lý insignificant nonentity,
trong khi Nguyễn Nguyệt Linh là chiếc dù rực rỡ sắc màu của đức hạnh. Đơn giản
vì Greta Thunberg nếu có tiếp tục “hoạt động” như hiện nay thì quả bóng có bay
cao cũng nổ xẹp rồi biến mất vào hư không nothingness
của trò chơi chính trị, trong khi Nguyễn Nguyệt Linh nếu vẫn tiếp tục là trẻ
thơ như hiện nay với lòng nhân hậu trưởng thành rồi dần trưởng thành theo năm
tháng thì Nguyễn Nguyệt Linh sẽ là một khởi phát văn tài. Có xuất phát điểm như
vậy, Nguyễn Nguyệt Linh sẽ ở trên vị trí cao vời mà một nữ giáo viên nọ dù lớn
tuổi và chẳng biết lượm đâu ra cái bằng thạc sĩ Văn chỉ để đẻ ra trên mạng “chùa” một bài thơ rác rưởi cẩm ca cẩm
lẩm hạ đẳng.
Giá
như Viêt Nam còn có người thứ hai như Hoàng Hữu Phước ở Hà Nội để có thể giúp
Nguyễn Nguyệt Linh thành nhà hùng biện tiếng Anh, vì ngoài Hoàng Hữu Phước thì
không bất kỳ giáo viên nào của bất kỳ trường nào tại bất kỳ quốc gia nào có thể
luyện Nguyễn Nguyệt Linh thành nhà hùng biện tiếng Anh và nhà văn nhà thơ tiếng
Anh cả. Song, chỉ cần Nguyễn Nguyệt Linh đừng để bị cuốn hút vào các mạng xã
hội rẻ tiền như Facebook và các mạng xã hội của các nước khác kể cả bất kỳ mạng
xã hội nào của Việt Nam rồi dành thời gian áp dụng cẩm nang của Hoàng Hữu Phước, thì việc vươn
lên về học vấn nói chung và ngoại ngữ nói riêng ắt sẽ vẫn trong tầm tay của
Nguyễn Nguyệt Linh.
Và
nếu như một Nguyễn Nguyệt Linh tâm đắc các lưu ý của Hoàng Hữu Phước rằng
(a) “biểu tình” dưới dạng xuống đường– kể cả các cuộc “xuống đường” của sinh viên học sinh Sài Gòn trước 1975 – là hành động hạ cấp hạ tiện và hạ đẳng vì gây cản trở giao thông, gây thiệt hại cho dân nghèo kiếm sống trên lề đường, đe dọa sinh mệnh sản phụ và bịnh nhân trên đường cấp cứu; và luôn là hành động vô hiệu, vô dụng, thuần phá hoại của bọn bất tài vô dụng; nhất là khi
(b) đang có sự bùng phát cái quỷ quái
gọi là “mạng xã hội” vậy sao không “biểu lộ tình cảm” trên không gian mạng đi;
chưa kể
(c)
đang là thế kỷ XXI với bao điều khoe khoang kỳ vĩ về tri thức, về trí
thức, về văn bằng, về văn minh, về văn hóa văn vật văn vẻ, thì sao không trổ
tài thảo ra các kiến nghị gởi đến đúng người đúng nơi; vì rằng
(d) lẽ nào đã xóa nạn mù chữ mà vẫn chưa đọc hoặc đọc không hiểu các bài viết của Hoàng Hữu Phước về “biểu tình” để biết Singapore trở thành cường quốc kinh tế nhờ tuyệt đối cấm “biểu tình”;
thì Nguyễn Nguyệt Linh sẽ không để bị lôi kéo vào những chiếc bẫy chính trị vốn đã nặn ra những hình hài vô dụng như Lê Công Định, Vu Cu (hình như trước khi thành người Mỹ thì có tên Vũ họ Cù), hay “Ngộ Quá Bà Bà” mà thôi.
Nguyễn
Nguyệt Linh cứ vui hưởng tuổi thơ, và hãy để những hoa đức hạnh tự thân rộ nở
tự nhiên theo thời gian. Đây mới là điều giúp đất nước này có được Nguyễn
Nguyệt Linh làm gương sáng.
Kính
cảm ơn hai đấng sinh thành của Nguyễn Nguyệt Linh đã cho Việt Nam được quyền
kỳ vọng vào tiềm năng một nhân tài.
4 Lời Ngắn
Gọn Nhất Dành Cho Lãnh Đạo Quốc Hội Việt Nam
Hoàng
Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Nhà Lập Hiến & Lập Pháp Khóa XIII,
Nhà Tư-vấn Sách-lược Quốc Trị, Nhà Chính-trị Cộng-sản Thiên Khổng Dân-tộc
Chủ-nghĩa
26-9-2019
Như
ở đầu bài Khi Cựu Quan Chức Cầu Cứu đăng
trên blog này ngày 06-10-2016 về cựu Viện Trưởng Viện Khoa Học Hình Sự Châu
Diệu Ái, tôi đã tuyên bố chấm dứt việc gởi thư góp ý cho Đảng, Quốc Hội, Nhà
Nước, nhằm tạo điều kiện cho Đảng, Quốc Hội, Nhà Nước có cơ hội thể hiện thực
sự thực tâm thực lòng trong các lời phát biểu văn hoa bóng bẩy về “chiêu mộ nhân tài” và “trân trọnghiền tài” và biến các phát biểu đó thành “lời nói luôn đi đôi với việc làm”.
Trong hoàn cảnh Đảng đang phải căng mình ra xử lý các hậu quả tàn tệ tàn tồi tàn khốc do đám “nhân tài” mà Đảng đã dại dột nghe lời bọn “tư vấn trong Đảng” dồn hết tiền thuế của dân để “đào tạo” nên cái đám chưa lớn thành người đã quay về kiếp khỉ như gã họ Tề ở Thành Phố Hồ Chí Minh ấy, tôi không tin là văn phòng Đảng có được dù chỉ một nhân sự đã xóa xong nạn mù chữ để khi đọc xong các góp ý của tôi mà hiểu được ý tứ để viết tổng hợp báo cáo đủ đầy cho lãnh đạo; vì vậy, tôi cứ đăng các ý kiến của tôi lên blog này để – như các thân hữu học trò tôi luôn nhớ câu khẩu hiệu mang dấu ấn đặc thù Hoàng Hữu Phước của tôi là “lành thay lành thay cho ai mời thỉnh ta” và “lành thay lành thay cho Việt Nam nếu có ta phò tá đấng lãnh đạo quốc gia” – để biết đâu chừng rất có thể có ngày sẽ…“lành thay lành thay” nếu có một đấng “con ông cháu cha” nào đó đọc được bài này sẽ đột nhiên đột biến lấy làm tâm đắc đột ngột về thỏ thẻ thủ thỉ thuật lại cho “ông” cho “cha” thì con đường vòng vo thẳng tắp không ổ gà ổ trâu chỉ có ổ khổng tượng này ắt giúp non sông thêm cẩm tú, sơn hà nên gấm vóc chăng. Thợ thủ công Việt rồi sẽ nhận biết bao đơn hàng của Nhà Nước để đục đẽo chế tác các khối đá khổng lồ dựng ở tất cả các Nhà Ga Đến ở tất cả các sân bay “quốc tế” ở Việt Nam mang dòng chữ “Cường QuốcViệt Nam Hân Hoan Đón Chào Quý Khách Ạ!”
Gần đây có sự cố 9 thằng/9con/9 thằng
với con/9 thằng trộn con đào tẩu từ đoàn cấp cao của Chủ Tịch Quốc Hội sang Hàn
Quốc.
Hoàng Hữu Phước tôi đây được học trò báo tin như vậy từ nhiều ngày trước với nguồn trên mạng của bọn truyền thông Tàu phát đi bằng tiếng Việt. Tôi đã lập tức trả lời rằng: “Chỉ có một trong hai thôi các em ạ: hoặc Tàu tung Fake News vì tiên sư tổ cha chúng là chuyên gia lừa bịp từ thời thằng lém Trọng Thủy, hoặc lãnh đạo Việt vẫn còn dính virus tứ đại ngu phát tác từ thủa con ngáo Mỵ Châu.” Hóa ra vế thứ hai là chính xác.
Trước khi nói vòng vo thẳng tắp vào cái sự cố 9 thằng/9con/9 thằng với con/9 thằng trộn con đào tẩu từ đoàn cấp cao của Chủ Tịch Quốc Hội sang Hàn Quốc ấy, tôi buộc phải chua nội hàm của “tứ đại ngu” vừa nêu vì nó chẳng dính dáng gì đến cái “Tứ Đại Ngu” nọ vốn chỉ dính đến một thằng, còn “tứ đại ngu” này là dính đến cả hệ thống quản trị quốc gia mà ngắn gọn lê thê thế này: chúng bao gồm (a) đại ngu thứ một: không phân biệt được sự khác nhau giữa “tự tin” và “chỉ tin vào chính ta”, (b) đại ngu thứ hai: không biết bản thân chưa từng và không bao giờ là đẳng cấp đại trí để tự biết tất, (c) đại ngu thứ ba: không biết rằng cách duy nhất để bản thân leo lên được đẳng cấp giỏi là nghe theo lời bảo ban của bậc nhân tài , và (d) đại ngu thứ bốn: đã biết bậc hiền tài ấy là ai do quốc gia chỉ có một vị thế mà vẫn để cho tự ái tủi hổ cá nhân né tránh vị ấy làm hỏng bét chuyện an bang định quốc.
Cái
chuyện Tân Tứ Đại Ngu xin để hạ hồi
phân giải, tức để khi nào Hoàng Hữu Phước tiên sinh “quởn” đã.
Ngay khi nảy ra sự việc 9 thằng/9con/9 thằng với con/9 thằng trộn con đào tẩu tại Hàn Quốc, lẽ ra Tổng Thư Ký Quốc Hội phải thông báo ngay lập tức danh sách cái đám ấy, cung cấp cho nhân dân biết thằng nào/con nào là lãnh đạo doanh nghiệp nào của tư nhân/nhà nước, thằng nào/con nào là chức sắc/chuyên viên Nhà Nước. Sự thông báo về số lượng chỉ xuất hiện sau khi bên nước ngoài thù địch (Tàu) loan tin chế giễu và sau khi bên nước ngoài hữu hảo (Hàn) tuyên bố trục xuất hai đứa ê chề, chỉ cho thấy Quốc Hội lúng túng kinh sợ và Tổng Thư Ký Quốc Hội cà lăm.
Tổng
Thư Ký Quốc Hội e rằng đã chỉ lo cho hạnh phúc cá nhân mà xao nhãng hạnh phục
tinh thần của nhân dân, để nhân đân xôn xao, để rồi từ nay tin rằng tất cả
những gì Tàu cung cấp trên mạng đều là tin thật chứ không phải Fake News!
Tổng
Thư Ký Quốc Hội e rằng đã chỉ là một kẻ bất tài vô dụng mà thôi.
2- Hiệu Ứng Vạn Lý Trường Thành:
Nhân loại không thể tồn tại đến ngày nay nếu các lãnh đạo quốc gia ngày xưa đã không áp dụng luật lệ cực kỳ hà khắc. Không có ngọn roi của Tần Thủy Hoàng, đã không có Đại Tường (Vạn Lý Trường Thành). Không có Đại Tường, đã không có Trung Hoa. Không có Trung Hoa, đã không định hình phân cực thế giới. Không định hình phân cực thế giới, Hoa Kỳ đã không bị hãm giam trong chiếc rọ Mỹ Châu.
(a) Một Anh Thư Thép phải có ngọn roi để quất trị các nhân lực dưới trướng. Không dám bày ra các quy định nghiêm khắc, nghĩa là do Người bị trói tay vì dưới trướng không có thuộc hạ mà chỉ toàn là con ông cháu cha thuộc diện hàng hóa ký gửi mà Người chẳng dám động đến. Một khi Người không dám động đến, cái đám hàng hóa ký gửi này sẽ tự tung tự tác tổ chức hàng hóa ký gửi khác tức cho “đi nhờ, đi ghép, đi chung với chuyên cơ lãnh đạo” khiến lơ lửng nguy cơ làm ô danh Người, mà khi Người bị ô danh, đó là nhục quốc thể.
(b) Là một Aries, tôi từ nhỏ tuyệt đối tránh bông đùa bông lơn trừ bánh bông lan, và nhờ vậy tôi có quyền lực tối thượng để ngạo nghễ phán rằng tất cả những lời tiêu cực về tôi chỉ toàn là Fake News. Người cũng nên tránh bông đùa bông lơn trừ bánh bông lan như Hoàng Hữu Phước. Tôi từng nghe các tướng lĩnh phá ra cười sau lưng Người để lưu truyền câu bông đùa bông lơn của Người lúc Người đến xạ trường tập bắn súng lục. Đặc điểm của người Việt mà các đặc tình đặc vụ đặc biệt khai thác để moi thông tin từ người Việt: đó là sự yếu kém trong giữ mồm giữ miệng. Chỉ có một lý do duy nhất khiến tôi từ chối gia nhập ngành An Ninh Tình Báo quốc gia dù có gần như tất cả các chuẩn mực tối cần thiết cho công tác này (sức khỏe quá tốt, sức chịu đựng cực cao, sự lỳ lợm cực kỳ, sự dũng cảm vô song, lòng yêu nước cao vời, khả năng hùng biện bất khả chiến bại, khả năng thích ứng cực cao, khả năng ngoại ngữ ưu việt, khả năng phân tích tin nhanh bén, khả năng tình dục mạnh, khả năng tửu lượng cao, khả năng độc lập tự chủ cao để hoạt động đơn tuyến, khả năng cảnh giác cực cao, khả năng bảo mật tuyệt đối, khả năng phòng thủ bậc thầy, và khả năng thoắt ẩn thoắt hiện chống đeo bám giỏi cắt đuôi khéo ngụy trang) là vì tôi thích công khai (hoạt động hàn lâm trước công chúng) và chuộng công bình (có công dứt khoát phải được thưởng, có tội dứt khoát phải bị trừng). Mà thiên hạ quanh Người không ai có được các chuẩn mực đó nên bảo mật cực kém và miệng mồm mất cảnh giác. Vì vậy, Người phải tuyệt đối cẩn trọng với các phát ngôn của Người trong những lúc tửu hậu trà dư với các “đồng chí” của Người.
Hiệu ứng Vạn Lý Trường Thành, do đó, có nghĩa là: lãnh đạo phải hà khắc tức nắm trong tay ngọn roi của kẻ dựng nên Vạn Lý Trường Thành, và lãnh đạo phải có tác phong cứng ngắc vững chãi như bản thân các bức tường của Vạn Lý Trường Thành.
Hãy
quất roi ngay vào mặt thằng nào/con nào đã lên danh sách cho 9 thằng/9con/9 thằng với con/9 thằng trộn
con được đi ké/đi chung/đi nhờ chuyên cơ của Người, bất kể thằng đó/con đó là con ông nào cháu bà nào.
Có làm như vậy, Người mới vẫn là nữ anh thư thép Việt Nam cứu
nguy được cho xã tắc.
3- Hiệu Ứng Cẩn Tắc Vô Ưu:
Suốt từ 30-4-1975 đến nay, tất cả các chuyến công tác nước ngoài của lãnh đạo Nhà Nước Việt Nam đều phải có sự tháp tùng của các doanh nghiệp (trước kia là doanh nghiệp Nhà Nước, về sau là có thêm các doanh nghiệp tư nhân) mà mục đích duy nhất là để có nguồn hỗ trợ thêm kinh phí cho chi phí tiêu xài cao cấp của các lãnh đạo cấp cao. Hãy nghiêm túc thanh kiểm tra kiểm toán toàn bộ các chuyến công tác nước ngoài trong suốt mấy thập kỷ qua để nhận ra rằng tổng kinh phí Nhà Nước cung ứng theo thang bậc của Bộ Tài Chính là bao nhiêu, tổng “hỗ trợ” kinh phí của các doanh nghiệp “tháp tùng” là bao nhiêu, và những doanh nghiệp đặc thù nào của Nhà Nước bị bắt buộc phải luôn có mặt để tổ chức và đài thọ cho các đoàn công tác của Thành Ủy/Tỉnh Ủy/Hội Đồng Nhân Dân/Ủy Ban Nhân Dân, v.v., và hãy tìm hiểu xem sự xài phí xa hoa vương giả của các đoàn “chính trị” Việt Nam mỗi khi công tác ở nước ngoài ra sao.
Chủ tịch Quốc Hội hãy ra nghiêm lịnh cấm không cho bất kỳ ai không là quan chức Quốc Hội chính thức có tên trong đoàn hoặc không là chuyên viên Quốc Hội chính thức có tên trong đoàn được đi ké/đi chung/đi nhờ chuyên cơ của Người, bất kể thằng đó/con xin xỏ được đi ké/đi chung/đi nhờ là con ông nào cháu bà nào hay bản thân nó là ông nào bà nào vì sự xin xỏ đương nhiên là tiêu cực, là dựa hơi, là ăn cắp tài sản của quốc gia từ tiền thuế của dân, mà bản thân Chủ Tịch Quốc Hội không bao giờ có thể ngu đến độ hứng chịu mọi trách nhiệm về các hậu quả do chúng gây ra. Có làm như vậy, Người mới vẫn là nữ anh thư thép Việt Nam cứu nguy được cho xã tắc.
Hãy tránh xa tất cả các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp Nhà Nước hay “sân sau”, và dứt khoát không nhờ vã vào tiền đài thọ của họ.
4- Hiệu Ứng Hoàng Hữu Phước:
Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân cần ra nghiêm lịnh buộc thuộc hạ tín cẩn của Người – nếu Người may mắn có được cái người sẽ-không-đào-tẩu ấy dưới trướng – đón đọc bài viết “Hiệu Ứng Hoàng Hữu Phước” sắp được tải đăng trên blog này để báo cáo lại Người nội dung ngắn gọn một cách lê thê ấy.
Hoàng
Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Nhà Lập Hiến & Lập Pháp Khóa XIII,
Nhà Tư-vấn Sách-lược Quốc Trị, Nhà Chính-trị Cộng-sản Thiên Khổng Dân-tộc
Chủ-nghĩa
Như
đã thuật lại trong một số bài trước, khi là một trong những giám đốc của Công Ty Dịch Vụ Cơ Quan Nước Ngoài FOSCO
trực thuộc Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh, tôi đã trở thành cái gai phải
nhổ bỏ trong mắt Tổng Giám Đốc sau khi tôi cực lực công khai phản đối việc ông
ta khát khao dồn hết tài sản công ty để vay vốn ngân hàng đổ vào dự án đầu tư
xây International FOSCO Clinic tức
một thứ bịnh viện dành cho ngoại giao đoàn và gia đình các trưởng đại diện công
ty nước ngoài tại Thành Phố Hồ Chí Minh, mà cái quỷ quái ở đây là khi họ chi ra
một tỷ bảy trăm triệu đồng (tiền Việt Nam năm 1997) để thuê dịch vụ viết một
cái trò hề gọi là “dự án tiền khả thi” với một thằng bác sĩ khoảng 45 tuổi được
thuê thỉnh thoảng ra vào FOSCO chỉ để nhận lương nhằm chứng minh “nhân sự cơ
hữu lãnh đạo về y đã sẵn có” qua đó tạo hào quang sáng ngời trong dự án rằng mọi
thứ đều theo bài bản Nhà Nước, rằng kinh doanh sẽ sớm có lãi và thời gian thu
hồi vốn cực nhanh (trên một giả định rằng 100% người nước ngoài ở Thành Phố Hồ
Chí Minh sẽ bịnh tật triền miên 24/7/365 tức mỗi ngày đều có bịnh nhân đủ 24
giờ suốt 7 ngày trong tuần và suốt 365 ngày trong năm (tức …chỉ trừ vài ngày
“nhuận” thì tất cả các virus đều né
người nước ngoài), ấy vậy mà cái “tiền khả chi” ấy được Chính Quyền Thành Phố
Hồ Chí Minh hoan hỷ ủng hộ. Sụp đổ giấc mơ vàng, Tổng Giám Đốc, người tự xưng
là cánh tay phải của Trương Tấn Sang, bắt đầu đại cuộc tống khứ Giám Đốc Hoàng
Hữu Phước, người đang được tất cả các đảng-viên-tép-riu
ái mộ muốn đưa vào Đảng để Đảng của FOSCO lần đầu tiên có được một nhân sự xuất
sắc ưu tú thanh liêm chính trực lừng danh ở khu vực nước ngoài.
Cuối
năm 1998, FOSCO ký hợp đồng với Vietnamtourism
để tổ chức chuyến tham quan 8 ngày/7 đêm cho tuyến Thành Phố Hồ Chí Minh-Hà Nội–
Quảng Châu- Bắc Kinh-Thẩm Quyến-Hong Kong-Quảng Châu-Thành Phố Hồ Chí Minh như
phần thưởng cho các cán bộ nhân viên được xếp loại “thi đua A”. Là lãnh đạo duy
nhất đạt trên 100% chỉ tiêu doanh số trong khi tất cả các đơn vị kinh doanh còn
lại chỉ đạt từ 65% trở xuống, tôi mặc nhiên đạt hạng A. Song, Tổng Giám Đốc
phát ra ý kiến chỉ đạo rằng ắt có sai lệch số liệu do thư ký của tôi vô tình cộng
trừ nhân chia nhầm hoặc do tôi chỉ đạo cố ý lừa gạt lãnh đạo, nên tạm thời đình
lại kết quả đánh giá của đơn vị của tôi và của cá nhân tôi để loại tôi ra khỏi
danh sách tham quan. Tất nhiên, trên đời này làm gì có chuyện kẻ đê tiện mất
dạy mà thắng được Hoàng Hữu Phước sao?
Thế là tôi tự bỏ ra 970 USD để vẫn có mặt trong đoàn tham quan dù là người duy
nhất diện “tự túc”. Tất nhiên, lúc đó hộ chiếu của tôi có từ thời nhiều năm phụ
trách văn phòng đại diện CIMMCO đã hết hạn, mà thủ tục rất nhiêu khê, không có
công văn của phía nước ngoài mời mọc thì tôi đừng hòng có passport mới, trong khi tôi đã bỏ CIMMCO sau khi thành công trong
việc cứu nông dân Sông Bé bằng cách tố cáo các tập đoàn Ấn Độ chủ mưu gây ra sự
cố hạt điều (chi tiết có tải đăng trên BáoTuổi Trẻ thủa ấy). Tôi phải đóng tiền
cho FOSCO làm hộ chiếu mới; nhưng khi họ không ký cái gọi là “hợp đồng lao động”
theo yêu cầu mới áp dụng của chính phủ Việt Nam nhằm loại tôi ra khỏi FOSCO thì
Ban Tổng Giám Đốc lưu manh mất dạy của FOSCO tuyên bố tịch thu hộ chiếu của tôi
để “trả lại Nhà Nước”. Sau này tôi được biết thằng trưởng phòng hành chánh thực
hiện sự tịch thu đó hóa ra lại chính là thằng ngợm nhiều năm trước đó làm việc tại
Văn Phòng Thông Tấn Xã Novosti Liên
Xô ở Hà Nội đã làm bốc hơi phần thưởng một ấm trà Samovar thủ công mỹ nghệ khổng lồ do nghệ nhân bậc thầy Nga chế tác
mà tạp chí Spunik gởi tặng tôi như giải
thưởng 1986 cho bài văn tiếng Anh về hòa bình của tôi mà số ra tháng 5-1987 tải đăng kết quả đoạt
giải.
(Ghi chú: Chi tiết về Giải Thưởng Viết Văn của Hoàng Hữu Phước từ tạp chí tiếng Anh Sputnik của Liên Xô được kể lại trong
bài “Tôi Đã Kiện Văn Phòng Thông Tấn Xã
Novosti Tại Việt Nam” đăng trên Emotino
ngày 23-9-2010 tại http://www.emotino.com/bai-viet/18825/toi-da-kien-van-phong-thong-tan-xa-novosti-viet-nam.
Emotino đã bị bọn tin tặc chống-Phước phá sập khi tôi phát biểu
kết liễu dự án Luật Biểu Tình tại
Quốc Hội nên không còn có thể truy cập vào đường link liên kết trên. Giải Viết Luận Văn Tiếng Anh của Spunik của tôi cũng được nhắc đến trong
bài Tôi
và Giải Thưởng Thơ Ca Quốc Tế Hoa Kỳ trên WordPress này).
Trong tờ lịch trình của Vietnamtourism mà Ban Tổng Giám Đốc FOSCO đã duyệt và ký hợp đồng, đoàn sẽ có mục đến viếng mộ Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái trong cụm 72 mộ liệt sĩ tại Nghĩa Trang Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu. Tôi háo hức trước viễn cảnh được thắp hương trước mộ của Người, như cuộc hành hương vĩ đại của một kẻ hậu sinh ái quốc từ đất Việt.
Như
đã nói nhiều lần trước đây rằng tôi rất ưa thích thời tiết giá lạnh (30 năm nay
luôn bật máy lạnh 24/7/365 ở nhà ở mức thấp nhất của mỗi máy tức có máy thì 160
C cái thì 170 C v.v. nên thường phải thay mới do máy mau hỏng),
thứ tiết trời tuyệt diệu mà hiện nay tôi không còn nhận được ở cái xứ miền Đà
Lạt mà vào tuần lễ Giáng Sinh tôi phải phe phẩy quạt bằng tờ tạp chí (sau khi
lùng kiếm khắp Chợ Đà Lạt chẳng thấy đâu bán quạt giấy, đã vậy còn bị mấy bà củ
sạp nhìn tôi như thể tôi đến từ Hành Tinh Lùn nào đó vậy) khi cùng vợ đi dạo,
còn lúc về đến khách sạn 5 sao nước ngoài thì quát mắng manager người Pháp tại sao không đáp ứng yêu cầu của tôi phải đem
vào phòng tôi ngay một chiếc quạt máy và tại sao khách sạn 5 sao mà lại chả có
phòng nào có máy lạnh thế kia. Với sự bực dọc trước cái ngu xuẩn của bọn khách
sạn nước ngoài lẫn nước trong tại Đà Lạt, gần hai chục năm qua tôi không hề trở
lại nơi duy nhất tôi trước đây thường đến nghỉ dưỡng ấy dù rằng các em tôi cam
đoan đã thấy có hotel ở Đà Lạt gắn máy lạnh rồi.
Vào
Giáng Sinh năm 1998 ấy, Bắc Kinh ở âm 13 độ C (-130 C). Từ Thành Phố
Hồ Chí Minh bay ra Hà Nội rồi chuyển sang phi cơ Tàu (China Airline và China
Southern Airlines) để đến Quảng Châu rồi thẳng tiến Bắc Kinh, tôi vẫn mặc
bộ y phục công sở (áo sơ mi trắng dài tay, bỏ trong quần tây sậm màu dài hai
ống, có thắt lưng, đi giày thể thao có mang vớ, nhưng không thắt cra-vát).
Khi
đến Bắc Kinh vào lúc nửa đêm, ai nấy đều lập cập mở bung hành lý lấy mặc thêm
áo ấm, còn tôi vẫn cứ phong phanh như thế tiến về bãi đỗ xe bus. Lần đầu tiên
trong đời tôi khoái trá tận hưởng cái lạnh -130 C khủng khiếp ấy:
tôi phải thở bằng miệng vì cơ chế tự bảo vệ của cơ thể trước cái lạnh giá kinh
hoàng khiến các niêm mạc trong mũi tôi tự động sưng to ngay để bít chặt hai ống
mũi nhằm ngăn chặn khí lạnh để bảo vệ phổi. Trong trạng thái nghẹn thở đó, tôi
đi thật nhanh đến xe và vội vàng tìm chỗ ngồi để nhanh chóng mở hành lý tìm áo
khoác mặc rồi đưa cánh tay lên che mũi miệng để …thở. Nhờ xe bus có máy sưởi
nên may thay không khí trong xe được nâng cao nhảy vọt lên đến -20 C
(âm 2 độ C) thật dễ chịu xiết bao!
Thế
nhưng trong phái đoàn 16 người ấy chỉ có tôi và một cô lễ tân là người ngoài Đảng, và cũng chỉ có hai người ngoài Đảng này cùng một nhân viên là cậu
của cô lễ tân là vui vẻ thích thú cái lạnh -130 C ở bên ngoài nên cũng chỉ có ba người này hân
hoan dẫm chân trên băng trơn trợt (hoàn toàn không có tuyết vì tuyết đương
nhiên đã biến thành băng đá khi là -130 C) trước khách sạn và náo
nức níu đu Đại Tường Great Walls (tức
“Vạn Lý Trường Thành”). “Níu đu” vì dù đứng yên không cử động vẫn bị trượt do
đứng trên “nước đá” tức lớp nước đóng băng trên mặt các bậc tam cấp dẫn lên Đại
Tường, nên muốn không trượt và bước lên được thì hai tay phải níu lấy gờ tường
để đu người nhích lên.
Không
cam chịu cảnh co ro trùm chăn lập cập ở khách sạn hoặc quấn mền trốn núp trên
xe bus, lãnh đạo đoàn là Phó Tổng Giám Đốc Nguyễn Sơn tuyên bố yêu cầu hướng
dẫn viên du lịch phải thay đổi ngay chương trình để bằng mọi giá (nghĩa là hào
phóng bồi thường bằng tiền công ty tức tiền Nhà Nước) phải rời Bắc Kinh trong
ngày để “Nam Tiến” về xứ miền ấm áp Thẩm Quyến ngay lập tức. Khi biết chuyến về
sẽ không có ghé Quảng Châu viếng mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái như lịch trình trước
đó mà nay sẽ là Bắc Kinh-Thẩm Quyến-Hong
Kong-Thẩm Quyến-Thành Phố Hồ Chí Minh, tôi phản đối, cho rằng nếu mọi người
không chịu được cái lạnh của Bắc Kinh mà vẫn đi, thì bây giờ bỏ Bắc Kinh xuống
Quảng Châu viếng mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái cũng được, sao lại bỏ luôn Quảng
Châu. Câu trả lời trước đám đông của đảng viên Cộng sản cấp cao bí thư chi bộ
Nguyễn Sơn cực kỳ ấn tượng:
“Sao ông Phước lại yêu nước đột xuất vậy? Ở
Thành Phố Hồ Chí Minh thiếu mẹ gì mộ liệt sĩ mà không đi viếng, phải lặn lội
qua đây mất thì giờ! Bỏ luôn Quảng Châu vì chỉ có chương trình mua sắm ở Thẩm
Quyến và Hong Kong thôi”.
Hóa
ra FOSCO ký ngay hợp đồng với công ty du lịch để có cơ sở giấy trắng mực đen chứng
minh với “Nhà Nước” rằng chuyến tham quan mang đầy ý nghĩa “cách mạng” nghĩa là
tên của liệt sĩ Phạm Hồng Thái trở thành bức bình phong che dấu một chuyến đi
thuần mua sắm, không chịu lạnh được vẫn phải ghé Bắc Kinh để vội vội vàng vàng
vượt muôn dặm quan san quay đầu trở lại Thẩm Quyến và Hong Kong là hai nơi mà
nếu đi thẳng từ Hà Nội sẽ gần hơn rất nhiều và tốn ít tiền “Nhà Nước” hơn rất
nhiều. Đúng là thằng đảng viên bí thư FOSCO lãnh đạo đoàn tham quan 1998 thuộc
vô số đứa mà Đảng đã đưa lên nhưng không hề giáo dục chúng về đạo đức thiên Khổng mà chỉ chú mục
dạy chúng về “đạo đức cách mạng” khiến vô số đứa bị tẩu hỏa nhập ma hỏng bét hết cả, đứa nào cũng tận tụy tình nguyện hoặc
vác tài sản Nhà Nước về cất giữ hộ nhân dân hoặc xé bỏ hết để đế quốc Mỹ Tàu đừng
hòng chiếm hữu.
Thế
là kẻ hậu sinh Hoàng Hữu Phước đã không thể quỳ trước mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái
để thắp hương và thầm đọc những lời đã soạn sẵn để mong làm ấm lòng anh linh
của Người nơi viễn xứ và để vái van lạy xin Người hãy phù hộ dân tộc Việt Nam.
Thế
là ở Thẩm Quyến (nay báo chí Việt Nam lại đổi thành “Thâm Quyến”), đảng viên
Cộng sản cấp cao bí thư chi bộ Nguyễn Sơn hý hửng chạy đi chợ tối lòng đường
mua ngay hai chiếc áo jacket (ghi
chú: một bộ veston gồm một áo jacket hai tay dài mặc ngoài, một áo vest tức ghi-lê sát nách mặc trong, và
một quần tây dài hai ống…mặc ngoài – tất cả phải cùng một loại vải và phải cùng
màu) một màu nâu và một màu vàng đất, trên cánh tay trái của mỗi áo có đính
nhãn hiệu bằng vải khổ 2cm x 7cm thêu logo nhà sản xuất.
Thế
là khi trở về Việt Nam, ở FOSCO có đứa mất dạy nào đó loan truyền tin tức rằng trong
toàn chuyến tham quan giám đốc Hoàng Hữu Phước ngoài-Đảng-không-thuộc-hạng-thi-đua-A-vẫn-bỏ-tiền-túi-đi-theo hóa
ra là để thường xuyên bỏ đoàn biến mất cùng cái cô nữ nhân viên lễ tân xinh đẹp
ngoài-Đảng-nhân-viên-ưu-tú-hạng-thi-đua-A
dù cô ấy là nhân viên của vị giám đốc khác, và dù cả đám sợ lạnh vẫn hân hoan xé
tiền Nhà Nước đi Bắc Kinh để co ro trong xe cứ như người Eskimo núp trong Igloo
vậy để rồi la toáng lên rằng Hoàng Hữu Phước cùng cô lễ tân bỏ đoàn để leo Đại Tường băng giá chả biết làm gì trên
đó. Tất nhiên, đứa mất dạy lờ luôn chi tiết rằng còn có sự có mặt của cái ông
cậu của cô lễ tân ấy.
Tin
tức loan truyền ấy khiến cô lễ tân ấy bực tức còn cậu của cô thân phận không
cho phép phản kháng vẫn nhăn mặt nhíu mày. Cả ba người đã luôn đi với nhau đơn
giản vì cả ba cùng khoái lạnh, cả hai cậu cháu không có máy ảnh, còn giám đốc
Hoàng Hữu Phước có máy chụp hình Canon
tối tân kèm tối thiểu 20 cuộn Kodak
màu và chân chống tripod chuyên
nghiệp nhưng không thể tự chụp do chỗ nào cũng đông nghẹt du khách ông đi qua
bà đi lại vô tư hất ngã tripod của
người ta rồi xổ tòan tiếng Tàu xì xồ xí xố trong khi Hoàng Hữu Phước tiên sinh
chỉ biết có mỗi ba câu gồm “Ngộ Ái Nị”,
“Tố Chè Xính Xáng”, và “Mẫu Dễ Xì Cun” (tất nhiên biết câu thứ
tư nhưng không dám xài bao giờ là “Ngộ Tả
Lị Xảy À!”) đủ để trò chuyện với bất kỳ ai từ Xì
Dính Bình trở xuống (tương tự như biệt tài học ngoại ngữ như tiếng Nga viết
luận văn luôn đứng đầu lớp đại học thế mà nay năm 2019 chỉ còn nói được mỗi ba
từ gồm “Dờ-Rát-Vui-Chè”, “Sờ-Ba-Xí-Và”, và “Đát-Vi-Đá-Nhà” đủ để trò chuyện với bất kỳ ai từ Tổng Thống Putin
trở xuống; còn tiếng Pháp là “sinh ngữ 2” trước 1975 viết luận thượng hạng các
lớp 10, 11, và 12 trung học, thế mà nay năm 2019 chỉ còn khả năng đọc toa thuốc
và nói được mấy câu như “Ê-Cút-Tê Mê
Dê-Tú-Diêng”, “Li-Dê A-Véc Moa”,
“Dơ Tem”, “Mẹc-Xi Bố-Cu”, “Ố Là La Ố Rờ
Voa” hoặc “À La Rờ-Sẹc Lơ Tăng Bẹc Đu”
đủ để trò chuyện với bất kỳ ai từ Tổng Thống Macron trở xuống vậy).
Bôi Nhọ là vũ khí duy nhất mà bọn vô lại sử dụng để chống
Hoàng Hữu Phước. Như đã nêu trong bài Tiên
Sư Trần Minh Hoàng rằng “Chống
Phật thì không bao giờ thành Phật”, bọn chống Hoàng Hữu Phước không bao giờ
thành người mà phải luôn sống kiếp Khỉ mà
thôi.
Ngay
khi tôi vùng vằng bỏ FOSCO ra đứng vươn vai hít thở nhìn qua tòa nhà thuộc tài
sản của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ở phía đối diện, các thám tử của các công ty nước
ngoài đang mật phục quanh đó nhìn thấy lập tức khẩn báo các lãnh đạo của họ đổ
xô đến bu quanh mời mọc và tôi nhanh chóng lựa chọn chấp nhận lời mời “lên xe
hoa” làm Giám Đốc Điều Hành cho một doanh nghiệp Mỹ ở California. Khi hay tin cô
nhân viên lễ tân xinh đẹp bị nhân
quả lãng xẹtchỉ vì tung tăng cùng cậu chụp hình chung với Hoàng Hữu
Phước mà bị bôi nhọ
đến độ nước mắt nước mũi uất ức rời bỏ FOSCO để tìm việc nơi khác, vất bỏ luôn
tất cả những quyền lợi về hưu trí của
một “cán bộ nhân viên biên chế Nhà Nước” có thâm niên công tác phục vụ FOSCO
trước tôi rất nhiều năm, tôi lập tức đánh tiếng mời cô gái hiền hậu đảm đang an
phận cam chịu không chút tham vọng vươn cao ấy về làm Trưởng Phòng Quản Trị Nhân Sự và Hành Chính cho tôi tại công ty
California ấy. Thậm chí để cô nhanh chóng quen môi trường mới, tôi còn bảo cô
cứ tự nhiên mời tuyển những đồng nghiệp thân tình nào của cô ở FOSCO muốn thay
đổi công việc đến làm chung với cô và tôi sẽ ký hợp đồng lao động ngay với họ. Khi
một nữ đại lý vừa tốt nghiệp khóa đầu tiên của Prudential tên Mai Thanh xin đến gặp, tôi đã gợi ý cô đại lý hãy về
bảo Prudential thiết kế cho tôi một
sản phẩm mà theo đó bên sử dụng lao động tức công ty tôi tức tôi sẽ mua bảo hiểm nhân thọ cho nhân viên như một
thứ phúc lợi đặc biệt, và khi nhân viên nào nghỉ việc thì nhân viên đó sẽ bắt
đầu tự đóng bảo phí tiếp. Thế là thay vì bắt đầu giới thiệu chào bán sản phẩm
gì gì đó cho tôi, cô đại lý được tôi yêu cầu hãy lắng nghe tôi nói chứ đừng nói
gì cả, để rồi thay vì bán được cho tôi một hợp đồng bảo hiểm, người nữ đại lý
ấy đem về Prudential một yêu cầu mới
lạ, mở đường cho Prudential bán hình
thức bảo hiểm mới lạ này (kèm thêm bảo hiểm tai nạn) cho toàn bộ mười nhân viên
của tôi kể cả nhân viên bảo vệ. Nữ đại lý ấy nhanh chóng trở thành đại lý thành
công, được thăng chức liên tục, sau này làm lãnh đạo một địa phương ngoài Trung;
hai chục năm qua mỗi khi gặp lại tôi, cô đều nhắc lại rằng cô biết ơn tôi đã
“mở hàng” may mắn cho cô vì trong ngày mới tốt nghiệp ấy đang lúng túng chưa
kịp trổ tài thuyết phục khách hàng câu nào cả thì vị khách hàng đầu tiên là tôi
đã giúp cô ấy đem về cả tá hợp đồng trong đó có hai hợp đồng tôi tự mua cho gia
đình chọn từ các sản phẩm mới tung ra của Prudential
và mười hợp đồng tôi thay mặt công ty ký với Prudential mua bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tai nạn cho mỗi nhân
viên theo thiết kế mà Prudential đáp
ứng đề xuất của tôi.
Sẽ
không bao giờ tôi còn có cơ hội đến Hoàng Hoa Cương để viếng mộ liệt sĩ Phạm
Hồng Thái. Sau này nhờ có anh bạn nước ngoài tên Google Search, tôi mới được nhìn thấy hình ngôi mộ và mộ chí của
Người. Nhưng tôi biết chắc chắn một điều rằng nếu anh linh là điều có thật chứ
không là điều huyễn hoặc của duy tâm phục vụ ý đồ tôn giáo, thì Người ắt không
còn buồn lòng trước thái độ quái gở của một đảng viên Cộng sản cấp cao như
Nguyễn Sơn mà sẽ vui lòng với tấm lòng của người hậu bối hạng vô danh tiểu tốt
Hoàng Hữu Phước, vì suy cho cùng thì Người
thuộc về lịch sử hào hùng bi tráng của dân tộc Việt Nam chứ Người không có bất kỳ vị trí nào trong Lịch Sử Đảng để những kẻ như Nguyễn Sơn đến
bái lạy tôn vinh miệng mồm thành kính.
Hoàng
Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Nghị-sĩ Khóa XIII
Lịch sử Việt hình như do có quá ít người vĩ đại về văn hóa học thuật nên các nhà viết sử (giỏi hơn “nhà sử học” chỉ “học” những gì “nhà viết sử” viết nên) thường hoặc sáng chế tưởng tượng hoặc phóng đại, rồi lây lan cái tật ấy cho đến ngày nay. Chớ biết dựa vào bằng chứng nào mà vẫn mạnh miệng nói Chu Văn An có dâng cái gọi là “Thất Trảm Sớ” đòi xử trảm bảy đại thần. Chớ biết dựa vào bằng chứng nào mà vẫn mạnh miệng nói Trương Vĩnh Ký là “nhà bác học biết hàng chục thứ tiếng nước ngoài”. Chớ biết dựa vào bằng chứng nào mà vẫn mạnh miệng nói về ý nghĩa cao vời của Phan Bội Châu và cái “Phong Trào Đông Du” của ông. Và chớ biết dựa vào bằng chứng nào mà vẫn mạnh miệng nói lãnh đạo này lãnh đạo nọ của Đảng Cộng Sản Việt Nam “sống trong lòng nhân dân”.
Tôi
là người duy nhất có quyền nói chính xác về sự vô tích sự, sự sai lệch chệch
hướng, lý do duy nhất đúng về sự thất bại thảm hại của “Phong Trào Đông Du” đối
với lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam, tổ quốc Việt Nam. Đơn giản vì tôi là
con cháu của một “nhà chí sĩ” của cái “phong trào” ấy. Ông lão tóc bạc bên góc
trái bức hình trên chụp trong lễ cưới của tôi và cô giáo Vũ Thị Liên chính là Lê Phục Thiện (tức Lê Quốc Túy, nhân vật tôi nói đến trong bài
Chính Kiến Hoàng Hữu Phước), là
“chú” của cô dâu. Cần nói thêm là cha mẹ vợ tôi sinh hạ nhiều con mà người con
gái cả lớn bằng tuổi mẹ của tôi, còn vợ tôi cùng cô em út thì nhỏ tuổi hơn tôi.
Do cha mẹ vợ tôi bằng tuổi với ông bà ngoại của tôi, nên theo lẽ bình thường thì
“chú” Lê Trọng Thiện lớn tuổi như bố của bố tôi vẫn là vai “chú” của tôi. Con
cháu của “chú” vẫn đang ở tại Dương Bá Trạc, Quận 8, bên kia Cầu Chữ Y, Thành
Phố Hồ Chí Minh.
Quay trở lại “sống trong lòng nhân dân”, tôi cần nhắc lại một luận điểm tam trùng về ngôn ngữ Việt rằng tiếng Việt có rất nhiều chữ cho một chữ tiếng nước ngoài thuộc nhóm danh xưng nên diễn tả được cụ thể hơn, chính xác hơn, biểu cảm hơn; đồng thời tiếng Việt có quá ít chữ thuộc nhóm biểu đạt trừu tượng và miêu tả nên một chữ tiếng Việt hoàn toàn thất bại trong các nỗ lực biểu đạt trừu tượng và miêu tả để thích hợp với nhiều chữ của nước ngoài; trong khi đó tiếng Việt lại có trường hợp dùng một từ cho nghĩa bóng nhưng với nhiều hơn một nghĩa.
Thí
dụ cho vấn đề tam trùng nêu trên có thể xét đến trường hợp
(a) Chữ “I” tiếng Anh thua tiếng Việt (tôi, tao, tớ, bố, mẹ, ông, anh, chị, cô,cậu, thím, dì, bác, chú, thầy, cô, bản chức, trẩm, nhi thần, anh, em, cháu, con, v.v.) nên không biểu đạt được vai vế và tình cảm trong danh xưng hay bằng tiếng Việt.
(b) Chữ “Biểu Tình” tiếng Việt thua tiếng Anh (protest, rally, demonstration, march, vigil, picket, civil disobedience, ceremony, dramaturgical demonstration, motorcade, tabling, petition gathering, lobbying, letter-writing campaign, teach-ins, symbolic display, menorah, creche scene, graffiti, cross burnings, signs, standing displays, riot, melee, mob violence, strike, boycott, press conference, v.v. và v.v.) nên rối loạn ý nghĩa tơ vò khiến Bộ Công An Việt Nam bất lực không biết có được xử lý mạnh tay hay không hay phải nhũn xèo đối với một “biểu tình” cụ thể nào đó, còn Quốc Hội Việt Nam thì lúng túng trong soạn thảo “Luật Biểu Tình” đến độ phải chấp nhận nghe theo lời khuyên của Nghị sĩ Khóa XIII Hoàng Hữu Phước cho gởi dự án ấy vào bãi Rác Đa Phướcchờ đến khi nào nghị sĩ Hoàng Hữu Phước “quởn” sẽ thủng thỉnh trở lại Quốc Hội đích thân biên soạn sau.
(c) Chữ “lòng” tiếng Việt lại dùng trong cả nghĩa đen và nghĩa bóng, đặc biệt nghĩa bóng lại có ít nhất 3 nghĩa khác nhau nên báo chí chính thống của Đảng Cộng Sản Việt Nam thường lạm dụng nghĩa bóng của “lòng”. “Bác Hồ sống mãi trong lòng dân”: lòng đồng nghĩa với “tâm khảm”. “Ý Đảng, Lòng Dân”: lòng đồng nghĩa với “mong muốn”. Còn kịch tuồng cải lương thì “Lòng lang dạ sói” và “lòng dạ đàn bà” hoặc “hiểu cho lòng em”: lòng đồng nghĩa với “ý đồ”, “con tim”.
Khác
với Nguyễn Thị Quyết Tâm thoát ly (bỏ gia
đình) vào chiến khu để sống trong lòng
dân với chữ dân đồng nghĩa với một
số ít “đồng chí”) và Trương Tấn Sang sống
trong lòng dân với chữ dân đồng
nghĩa với một số ít dân nghèo kênh rạch Quận 4 Sài Gòn “che dấu cán bộ”) để
thực hiện dấu súng lục phục vụ ám sát, Hoàng Hữu Phước sống trong lòng dân với chữ dân
có nghĩa là “thủ đô Sài Gòn của Việt Nam Cộng Hòa với toàn bộ các sinh hoạt
chính trị/văn hóa/xã hội/tôn giáo/giáo dục/báo chí/ngoại giao”. Nguyễn Thị Quyết Tâm và Trương Tấn
Sang đã không sống trong lòng dân với ý nghĩa bao trùm trọn vẹn Sài Gòn trong
chiến tranh, và sau chiến tranh luôn sống trong tháp ngà quyền lực chứ không “sống
trong lòng người dân” tức chỉ gần dân “đại cử tri” mỗi khi “tiếp xúc cử tri” để
nhận sự lập đi lập lại các đơn khiếu tố triền miên của “nhân dân” Thành Phố Hồ
Chí Minh. Và tất nhiên đương nhiên trong ba người – kể cả trong toàn
bộ Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh rồi toàn bộ lãnh đạo Thành Ủy và Chính Quyền Thành
Phố Hồ Chí Minh từ ngày 30-4-1975 đến nay – chỉ có Hoàng Hữu Phước biết đầy đủ
nhất thực tế nhất về sinh hoạt chính trị/văn hóa/xã hội/tôn giáo/giáo dục/báo
chí/ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa do là người duy nhất thực sự sống trong lòng
sinh hoạt chính trị/văn hóa/xã hội/tôn giáo/giáo dục/báo chí/ngoại giao của
Việt Nam Cộng Hòa để có dư thừa cơ sở để tự ban cho mình danh vị Nhà Việt Nam Cộng Hòa Học duy nhất của nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Người
Việt sính phóng đại.
Nhưng
Hoàng Hữu Phước không bao giờ phóng đại mà chỉ luôn nêu lên sự thật do bản thân
tất nhiên phù hợp với vai trò lãnh đạo truyền
thông chính thống của quốc gia. Việc Hoàng Hữu Phước sống trong lòng dân là sự thật giản đơn, thuần khiết.
Lần
nào ngừng xe ở đèn đỏ đường Nguyễn Đình Chiểu gần ngã tư Cách Mạng Tháng Tám
tôi cũng mãi mê nhìn qua khung cửa đến chiếc xe bán quà vặt trong ảnh trên.
Chiếc
xe ấy trên lề đường công viên tượng đài Thích Quảng Đức. Cũng chính nơi ngã tư
này, lịch sử bi tráng của Việt Nam đã chứng kiến thời khắc lịch sử chấn động
địa cầu khi nhà sư Thích Quảng Đức tọa thiền ngay giữa ngã tư đường, điềm tĩnh
châm lửa biến nhục thể thành ngọn đuốc sống ngời sáng chân lý mà Hoàng Hữu
Phước diễn giải qua nội dung ca ngợi như một cuộc “đấu tranh thực thụ vì chân lý thực thụ với lòng dũng cảm thực thụ từ
một lòng nhân thực thụ vì chúng sinh/đạo pháp/chính nghĩa/dân tộc/tổ quốc để
đạt đến một chiến thắng thực thụ và viên mãn cho tổ quốc Việt Nam”, sự hy
sinh dũng cảm mà ngoài Thích Quảng Đức cùng hai vị sư như Người, không từng có
bất kỳ ai từ bọn chính khách thất học đến bầy tu sĩ mất dạy nào dám thể hiện
tương tự ngoài việc bọn trước đã lạm dụng “làm chính trị đối lập
chống Thiệu” để tuyệt
thực diễu hề còn bọn sau hiện lạm dụng “tôn giáo” để xách động “biểu
tình đối lập chống…Tàu” mà thực chất là làm tay sai ngoại bang phản động chống
phá Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, với đặc điểm cả hai bọn lạm
dụng này thì bọn trước đã là losers
tức bọn thất bại tồng ngồng chạy khỏi Việt Nam, còn bọn sau thì không bao giờ thoát
kiếp doomed–losers tức đương nhiên thất bại.
Vào
những năm 60 của thế kỷ trước (ghi chú:
đây là mẫu câu do
Hoàng Hữu Phước sáng tác và đưa vào sử dụng ngày 01-01-2000 bằng tiếng Việt
và tiếng Anh mà hiện nay toàn thế giới – đặc biệt là truyền thông chính thống Việt
Nam – bắt chước sử dụng), tôi hay đi bộ ra chỗ xe lề đường ấy để mua những món
tuyệt diệu như cóc ngâm, ổi ngâm, chùm ruột ngâm, mứt chùm ruột cắm que môi que
năm trái mập ú, me vàng ngâm nguyên trái, me nâu ngào đường cát, me nghiền ép
miếng đỏ tròn lớn như đồng bạc cắc Ngô Tổng Thống, và xí muội, kẹo dẻo, v.v. và
v.v.
Như
đã nói rõ trong bài Giá
Như Còn Đó Những Người Nghèo Xưa, vệ sinh an toàn thực phẩm và tay
nghề cha truyền con nối là hai thứ tuyệt diệu duy nhất tồn tại nơi những
người buôn gánh bán bưng thực phẩm nơi đầu đường xó chợ đất Sài Thành thời Việt
Nam Cộng Hòa mà tôi gọi là những người làm những nghề không-thể-giàu. Hai thứ
tuyệt diệu duy nhất ấy hình thành từ gia
giáo thiên Khổngluôn trên 4
nguyên tắc của (a) nhân đạo, (b) danh dự, (c) trách nhiệm, và (d)
phong cách nghèo-cho-sạch/rách-cho-thơm, chứ không từ ý thức thượng tôn luật
pháp rẻ riêng. 4 nguyên tắc mang hình thức ngôn từ vĩ đại ấy thật ra lại cực kỳ bình
dị giản đơn nơi người nghèo Sài Gòn buôn gánh bán bưng thực phẩm trước 1975 gồm:
(a) Nhân
đạo: phải giữ vệ sinh tuyệt đối vì gây bịnh cho người ăn sẽ là tội ác với
Trời Phật và đơn giản vì chính gia đình mình sẽ ăn những thứ ngon và lành ấy
nếu bị ế sau cả ngày dài bán không hết, từ đó xuất hiện thành ngữ “lấy công làm
lời” của người nghèo nghĩa là chỉ chọn mua nguyên liệu thượng hạng, phải chuẩn
bị mọi thứ sạch sẽ tuyệt đối trước khi chế biến, phải bảo quản che chắn cẩn
thận trước khi bắt đầu gánh hoặc đẩy xe thức ăn đi bán dạo, và giá bán chỉ gồm
giá thực của nguyên liệu cộng với một chút gọi là “công” chế biến món ăn –
nghĩa là chỉ có bọn gian thương mới hoặc nâng giá nguyên liệu hoặc mua nguyên
liệu thứ phẩm để kiếm lời theo giá chính phẩm;
(b) Danh
dự: món ăn bán phải ngon phải lành phải rẻ vì đó là tay nghề do cha mẹ
truyền lại, dứt khoát không để ô danh mẹ cha;
(c) Trách
nhiệm: món ăn bán phải làm khách hàng thỏa mãn ba yêu cầu của ngon, bổ, rẻ;
và
(d) Phong
cách nghèo-cho-sạch/rách-cho-thơm: bán món ăn không hết thì về quây quần cả
nhà ăn trừ cơm, dứt khoát không chèo kéo khách hàng, không năn nỉ van xin khách
hàng mua giúp.
Ngần
ấy thứ đơn giản mộc mạc tự thân ấy đã giúp (a) người nghèo được tôn trọng tại
Việt Nam Cộng Hòa và tất cả những tuồng kịch nào có tình huống khinh rẻ
người nghèo là do tác giả kịch bản lộn sai qua nội dung “môn đăng hộ đối” chỉ
có dưới thời Pháp Thuộc trước đó, (b)
người dân yên tâm tuyệt đối khi cho con cháu tiền mua món ăn đường phố, (c) ẩm thực đường phố Việt Nam Cộng Hòa
cực ngon, và (d) đạo đức xã hội được
tôn tạo duy trì.
Vào
mỗi ngày Chủ Nhật, như đã kể bao lần trên blog này, Ba tôi áo quần tươm tất (sơ
mi trắng dài tay bỏ trong quần tây dài hai ống, có thắt cra-vát, có thắt lưng,
mang giày tây có vớ), Má tôi mặc áo dài đơn sắc, gọi taxi đưa các con ra Sài
Gòn xem phim Ấn Độ ở Rạp Long Phụng (nay là đường Lý Tự Trọng), rồi sau đó tản
bộ ra ngã tư của nơi mà nay là Lê Lợi-Pasteur ghé vào nơi một ông người Hoa
dựng xe đạp trên lề đường, yên sau xe là chiếc mâm thiếc to đùng bày ra các món
gọi là “khìa” và “phá lấu” làm từ lòng heo, xắt miếng nhỏ, khô ráo tinh tươm
chứ không sũng chảy nhễu nước sốt, mỗi miếng có cắm một cây tăm. Thế là chúng
tôi hân hoan hồ hởi phấn khởi ăn quá chừng chừng, và ông người Hoa tính tiền
dựa theo số lượng chiếc tăm khách hàng bỏ lại trên chiếc chén đựng tăm. Rồi sau
khi cả nhà đi dạo nơi gọi là “Thương Xá Tax”, Ba Má tôi dẫn các con đi ăn tại
một tiệm cơm Tàu/mì Tàu mà tôi quên mất các đặc điểm. Chỉ có một điều duy nhất
chính xác: chưa bao giờ bất kỳ ai trong gia đình tôi từng trải qua cái mà sau
này thiên hạ gọi là “rối loạn tiêu hóa” hay “ngộ độc thực phẩm” cả.
Hơn
50 năm đã trôi qua, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe ấy tại chỗ ấy như trong bức hình
ở trên. Có lẽ cô bán hàng là con cháu của bà cụ ngày xưa. Tôi không ghé vào mua
gì, không phải vì tôi không còn thèm muốn ăn các món ấy. Tôi không ghé vào mua
gì, không phải vì tôi không còn tin tưởng vào vấn đề vệ sinh tuyệt đối như thời
Việt Nam Cộng Hòa của các món ấy. Tôi không ghé vào mua gì, chỉ vì ngày nay xe
cộ đông đúc quá, tất bật quá, hối hả quá, thiên hạ hung hăng hung hãn hung bạo quá,
nên tôi không thể nào hạ cửa kính xe xuống nói vọng vào rồi chờ vói tay nhận
hàng và thanh toán tiền trước tiếng còi xe thúc hối cùng tiếng làu bàu chửi bới
được. Đã vậy, GrabFood lại không có
mục giao thức ăn cho những xe lề đường như vậy. Đành chịu thôi.
Mỗi
khi tình cờ chuyển nhầm kênh thấy đoạn phim hay đoạn kịch hay đoạn tuồng Việt
Nam về “môn đăng hộ đối” là tôi cười sặc sụa, bảo “tụi này đang diễn cảnh trên Hỏa Tinh”. Tôi từng kể trên blog này rằng
căn nhà kế bên nhà Ba Má tôi trong ngõ 16/72 Nguyễn Thiện Thuật Quận 3 ngày xưa
có một đám cưới khổng lồ. Cô dâu là Nguyễn Thị Hòa, em gái của Ông Hai Bà Hai
gia đình Bắc Di Cư. Ba Má tôi xem Nguyễn Thị Phượng, con gái út của Ông Hai Bà
Hai như em gái. Cô Phượng hay sang bế tôi khi tôi lên một tuổi. Nghĩa là tôi
phải gọi cô dâu tên Hòa ấy là “Bà”. “Bà” Nguyễn Thị Hòa là cô gái “Bắc Kỳ nho
nhỏ” rất thấp bé, rất gầy ốm, rất trắng trẻo xanh xao, miệng rất “hô”, nhút
nhát. Gia đình Ông Hai Bà Hai rất nghèo, nhà cửa rất lụp xụp, không lầu. “Bà”
Nguyễn Thị Hòa là nhân viên văn phòng. Chú rể là Phạm George, gia đình Bắc Di
Cư quốc tịch Pháp rất giàu có, dáng người rất cao to lực lưỡng, rất đẹp trai,
tuấn tú, chủ nhân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Sài Gòn. Khi bên “đàng trai”
đến rước dâu, đám đông phải đứng ngoài đường trước nhà tôi vì không thể cùng
chen chúc vào trong nhà chật hẹp của cô dâu. Tôi thấy bao ông Tây bà Đầm, bao
công chúa Việt sang trọng, bao hoàng tử Việt trọng sang đứng xếp ve ắt trong
lòng thấy bất tiện khi phải tháp tùng vào hẽm nhỏ xóm nghèo đứng lố nhố ngoài
sân để thỉnh đón một nàng dâu Việt mà theo ngôn ngữ hạ đẳng của 2019 là “mặt mũi đã vậy mà không có cái vòng nào nóng
bỏng ra hồn cả”, thậm chí kẻ độc mồm độc miệng còn có thể phang luôn rằng “hình hài như thế thì đẻ đái gì được!” “Bà” Nguyễn Thị Hòa được thỉnh đón vì “Bà”
thuộc gia đình gia giáo thiên Khổng, “Bà”
có đủ 4 phẩm hạnh cao vời của nhân
đạo, danh dự, trách nhiệm, và phong cách nghèo-cho-sạch/rách-cho-thơm như đã kể
trên khi “Bà” thể hiện tại nơi làm việc để được gia đình đại tư bản thế gia
vọng tộc phải kính trọng thương yêu. Sau 1975, “Bà” cùng chồng bế hai con trai
bụ bẩm đến chào Ba Má tôi trước khi rời Việt Nam sang định cư tại Pháp.
Mỗi
khi tình cờ chuyển nhầm kênh thấy đoạn tin tức về ngộ độc thực phẩm, tôi ngạc nhiên lẽ nào “công ty suất ăn công
nghiệp”/canteen của xí nghiệp khổng
lồ thời bốn-chấm-không lại không có 4 cái
phẩm hạnh đơn giản ấy của người nghèo xưa buôn gánh bán bưng xó chợ lề đường?
Và
mỗi khi tình cờ lướt web nhầm trang quảng cáo rất hoành tráng về tiệm “xôi gói lá
chuối” to đùng, tôi cười sặc sụa, bảo “ái
chà chà, thảo nào không còn những người nghèo xưa, vì bị bọn nhóc đại gia nhào
ra bán món bình dân giành ăn hết trọi rồi!”
Xôi gói lá chuối ư? Cơm tấm ư? Họ chả biết là ở ngày xa xưa
ấy, người bán cơm tấm/bán xôi buộc phải nghèo vì họ chỉ mua gạo tấm/gạo nếp
thượng hảo hạng, chỉ theo công thức truyền thống cha truyền con nối chứ không
dám “sáng tạo” xài hóa chất công nghiệp, và luôn dành gần nửa ngày chỉ để bảo
đảm nguyên liệu gạo/rau/lá chuối được rửa sạch vệ sinh tuyệt đối trước khi đem
ra chế biến. Xôi (người Miền Nam
chỉ ăn xôi ngọt) ngon là do nếp thượng hạng được nấu theo công thức gia truyền,
chứ không ngon vì “gói lá chuối”. Cơm tấm (người Miền Nam sành điệu chỉ ăn cơm
tấm bì khô rời nhỏ, hoặc cơm tấm chả trứng, hoặc cơm tấm thịt heo nướng xắt
miếng mỏng mềm) ngon là do gạo tấm thượng hạng được nấu theo công thức nấu và
công thức pha nước mắm gia truyền, chứ không ngon vì tên của tiệm ăn/nhà hàng
do người nội địa hay Việt Kiều làm chủ. Không biết các điều cơ bản này, các
tiệm chỉ có thể bán cho giới trẻ tức những người sinh sau đẻ muộn chưa hề nếm
qua các món ăn bình dân sang trọng
Sài Gòn trước 1975 dành cho dân sành điệu, nên chỉ biết các món hoặc rẻ tiền hoặc mắc tiền của Thành Phố
Hồ Chí Minh ngày nay dành cho người có tiền nhiều hay ít mà thôi.
Đó là lý do ngày nay tôi người-Sài-Gòn-xưa
phải chuộng món ăn Tây.
Chúc
cô bán món ăn vặt trên chiếc xe đẩy treo lủ khủ đồ ở công viên tượng đài Thích
Quảng Đức ở ngã tư Nguyễn Đình Chiểu-Cách Mạng Tháng Tám Quận 3 Thành Phố Hồ
Chí Minh mạnh khỏe nhé. Mong sao có ngày nào đó thiên hạ lo đi xem Bóng
Đáđể tôi có thể kêu tài xế ghé vào để mua vài chục ngàn đồng các
món học trò của cô mà không phải nghe tiếng còi xe phẫn nộ và tiếng chưỡi tục
của những con đười ươi trên những chiếc xe máy hai bánh giá cả trăm triệu đồng
phía sau.
Nếu
quý vị “công chức của Nhà Nước” đanglàm
“công bộc cho Đảng” để được Đảng giao quyền trượng “phân công làm Bố Mẹ của nhân dân” tức đang chễm chệ quản lý – mà
quản lý chẳng nên thân – các cơ quan của Nhà Nước để thực hiện các chủ trương
chính sách của Đảng, muốn quản trị hiệu quả ra hồn ra ngô ra khoai thì hãy tìm
đọc các bài viết của Hoàng Hữu Phước cho nên người.
Cụ thể, tập thể lãnh đạo Liên Đoàn Bóng
Đá Việt Nam
và Sân Hàng Đẫy hãy nghiêm túc đọc bài về Bóng Đá như sau.
A) Giá Trị
Thật Của Bóng Đá
Trong
bài Bóng Đá Là Cái Hố Hô Gì Vậy và nhiều
bài viết khác, tác giả Hoàng Hữu Phước đã hé lô thông tin tuyệt mật: ông ta
chẳng ưa gì cái môn Túc Cầu tức “Bóng
Đá” mà nói rõ thì phải là Bóng Đá Soccer, và từ lúc gia đình ông
ta là ngôi nhà đầu tiên có tivi ở Quận 3 Sài Gòn thì ông ta đã say mê môn Bóng Đá Rugby tức Bóng Đá Mỹ tức Bóng Đá Bầu
Dục mà chẳng đoái hoài gì đến Bóng Đá
Soccer vì 9 lý do nêu ở dưới đây:
1)
Bóng
Đá Soccer tức Bóng Đá Tròn
tức Túc Cầu trước đây là môn chán
ngắt: cầu thủ tha hồ đá bóng về cho thủ môn chụp bắt mỗi khi dẫn bóng lên hoài
mà không được, khiến trận đấu nào cũng đầy uể oải, cầu thủ sàng qua sàng lại
trên sân như những tên ngáo ngu muội, đa số trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 0-0
dù ở bất kỳ quốc gia nào, biến Bóng Đá
Soccer là môn thể thao duy nhất của nhân loại có tỷ số 0-0 dù sau hơn 90
phút chạy lăng quăng như ngựa khùng trên sân cỏ, chỉ phát triển ở các nước hoặc
lạc hậu hoặc nghèo-hơn-Mỹ hoặc không nghèo nhưng sống-bám-Mỹ, và đây là lý do Bóng Đá Soccer đã không phát triển ở Hoa
Kỳ vốn là xứ sở của những con người năng động ưa chuộng những môn thể thao có
tính đối kháng cao và có điểm số nhảy liên tục hoặc lên cao chót vót hoặc trên
dưới phân biệt phân minh không bao giờ kỳ quái (tức không bao giờ có tỷ số 0-0)
chẳng hạn như Bóng Rỗ hoặc Bóng Đá Rugby(tức “Bóng Đá Mỹ”) hay Bóng Chuyền
hay Dã Cầu Baseball (khiến FIFA của
Bóng Đá Soccer sau này muối mặt buộc
phải tìm cách cứu gỡ thể diện hèn kém quê mùa bằng cách vừa cơi nới khung thành
rộng hơn nhằm có bóng vô được vào trong lưới dễ hơn một tí, vừa ra quy định mới
không cho phép thủ môn dùng tay chụp bóng nếu đồng đội đá chân trả ngược lại);
2)
Bóng
Đá Soccer trước 1980 là môn chán ngắt: chỉ có một “ngôi sao” duy nhất
là Pelé mà sở dĩ Pelé là “vua phá lưới” không nhờ tài cán gì đặc biệt mà chỉ vì
nhờ các cầu thủ trên toàn thế giới tha hồ tự do đá bóng về cho thủ môn chụp bắt
mỗi khi dẫn bóng lên hoài mà không được khiến các cầu thủ/khán giả/trọng tài ai
cũng ngủ gục trên sân để Pelé nhờ uống cà phê Brazil không ngủ gục nên cứ thế
mà lũi tới ghi bàn;
3)
Bóng
Đá Soccer luôn là môn thể thao
đối kháng duy nhấttrên thế giới có
tình trạng diễn biến thi đấu tồi tệ đến độ những người đàn ông chân chính
(chẳng hạn đàn ông chân chính “thượng đẳng da trắng” ở Mỹ, New Zealand, v.v.) hoặc
công khai bật cười nghiêm khắc phê phán là thấp hèn khi thấy cầu thủ Bóng Đá Soccer lúc thì “chấn thương” nằm
sân lăn lộn rồi đứng dậy chạy nhanh hơn
ngựa, lúc thì “ăn vạ” kiếm hoặc quả phạt
đền cho mình hưởng hoặc kiếm thẻ đỏ triệt bớt quân số đối phương, lúc thì
“câu giờ”, v.v. và v.v; hoặc mĩa mai khi bù khú với nhau tại các câu lạc bộ với
giọng kỳ thị xúc xiểm (mà ngày nay tối kỵ ở thế giới “thượng đẳng da trắng”)
rằng Bóng Đá Soccer là môn thể thao
thích hợp cho phụ nữ và dân đồng tính nam;
4)
Bóng
Đá Soccer luôn là môn thể thao
đối kháng duy nhấttrên thế giới có
tình trạng tồi tệ về khán giả: do từ ngữ hooligan
chỉ dính tới “bọn khán giả côn đồ trong
một trận bóng đá” chứ khán giả các môn thể thao khác chẳng bị gọi là hooligan bao giờ;
5)
Bóng
Đá Soccer luôn là môn thể thao
đối kháng duy nhấttrên thế giới có
tình trạng mang tính tồi tệ thường xuyên
về cầu thủ đối với các vấn nạn như bán độ,
dàn xếp tỷ số, lưu manh đánh nhau
trên sân, tàn ác cố tình gây thương tật vĩnh viễn cho đối phương, côn đồ đánh
luôn trọng tài, mất dạy hung hăng đánh luôn khán giả, v.v.;
6)
Bóng
Đá Soccer luôn là môn thể thao
đối kháng duy nhấttrên thế giới có
tình trạng tuyệt đại đa số các cầu thủ có học vấn thấp nhất – thậm chí khu vực
Nam Mỹ còn có sự xuất hiện của những cầu thủ chưa từng đi học văn hóa bao giờ –
do chỉ những “ngôi sao” (hoặc “tiềm năng vượt trội”) thể dục thể thao các bộ
môn khác mới được ưu tiên tuyển dụng/mời chào/săn đón vào các trường đại học
lớn của Âu Mỹ, thậm chí còn được ưu tiên cấp quy chế di trú ưu ái và nhập quốc
tịch ưu tiên;
7)
Bóng
Đá Soccer luôn là môn thể thao
đối kháng duy nhấttrên thế giới có
tình trạng không nêu bật được tư cách trang trọng và sang trọng của khán giả dự
khán trận đấu cũng như không nêu bật được thực quyền thực uy của trọng tài, chẳng
hạn như tại trận đấu tennis các cấp
từ thấp đến Masters hay GrandSlam (a) khán giả đều ăn
mặc tươm tất, (b) trọng tài có quyền
lực ngay cả với khán giả khi chỉ với một từ ngắn gọn sẵng giọng “Thank You!” hoặc “Please!” là đủ khiến khán giả yên lặng phăng phắc ngay lập tức để cầu
thủ đánh cú phát bóng và thậm chí khán giả có đi toilet xong trở vào cũng phải hoặc đứng yên như phỗng chờ hoặc ngồi
xuống ngay bậc cầu thang lối đi chờ đến hết một điểm ghi bàn chứ không được tự
len về chỗ ngồi, và (c) trọng tài có
quyền tuyên phạt ngay trên sân đối với lỗi của cầu thủ mà luật liên đoàn quy
định cực kỳ nghiêm khắc – chẳng hạn tại Giải
Tiền US Open Cincinnati 2019 vừa qua cầu thủ Úc Đại Lợi Nick Kyrgios bị
phạt 113.000 USD tương đương 2 tỷ 622 triệu Đồng Việt Nam do đập gảy hai cây
vợt của chính y và văng một câu tục dài 3 âm tiết chửi trọng tài Fergus Murphy,
và có thể sẽ phải bị cấm thi đấu 3 năm do sau đó tuyên bố thêm rằng liên đoàn
ATP thối nát khi có quy định phạt như thế;
8)
Bóng
Đá Soccer luôn là môn thể thao
đối kháng duy nhấttrên thế giới có
tình trạng không an toàn trên khán đài gây thương vong cho khán giả từ đánh
nhau cho đến sập khán đài, v.v.; và
9)
Ngay
từ khởi thủy ở Anh Quốc – theo tài liệu môn British Civilization tức Văn Minh Anh mà giảng sư
Hoàng Hữu Phước phụ trách thì Bóng Đá
Rugby dành cho nam sinh giới quý tộc tại các trường quý tộc ở thủ đô London
Anh Quốc trong khi Bóng Đá Soccer
dành cho nam sinh giới bình dân tại các trường bình dân tỉnh lẻ Anh Quốc, mà giảng sư Hoàng Hữu Phước tất nhiên không
cho là bản thân ông ta nên đon đả sáp vào mấy chỗ thi đấu đặc sệt tính bình dân
đầy nắm đấm, đầy cú đá, và đầy…pháo sáng như Sân Hàng Đẫy ở Việt Nam.
Tóm
lại, Bóng Đá Soccer là môn thể thao “Nổ” nhất Việt Nam vì chỉ có
Việt Nam mới gọi trọng tài Bóng Đá Soccer
là “Vua Sân Cỏ” và gọi Bóng Đá Soccer
là môn “thể thao vua”, đến độ anh chàng Cố
Ca Cố La ắt sau lưng bỉu môi với Bóng
Đá Soccer – vì là Mỹ mà – nhưng ngoài mặt thì ở Việt Nam tung hê quảng cáo Cố La Cố Hét rằng “Ăn Bóng Đá, Ngủ Bóng Đá”.
Cần
nhắc kỹ ở đây là trọng tài Bóng Đá Soccer
là “vua cái khỉ khô” do 8 lý do hắn
ta (a) chả có bất kỳ quyền lực gì
với khán giả, (b) có nguy cơ bị khán
giả ném “vật thể lạ lùng”, (c) có
nguy cơ bị cầu thủ rượt đánh đá quen thuộc, (d) có nguy cơ bị dính nghi án tiêu cực, (e) có nguy cơ ngây thơ đột xuất không nhìn thấy gì khiến kết quả
trận đấu không đúng thực tế do chả rút thẻ, (f) có nguy cơ ngây thơ đột xuất nhìn thấy bậy bạ khiến kết quả trận
đấu không đúng thực tế do thẻ đã rút ra thì không hủy được nữa, (g) thiểu năng do không giám sát bao
trùm khiến một thằng thấp con hèn hạ dùng tay đánh bóng vào lưới ngay tại một giải
World Cup nọ mà cũng được công nhận đến nỗi nó công khai khoe đó là “bàn tay của Chúa”, và (h) chả có liên đoàn nào bảo vệ tuyệt
đối cả nên cứ bị “treo còi”.
Cũng
cần nhắc kỹ thêm ở đây là Bóng Đá Soccer
là “môn thể thao vua cái khỉ ướt” do chả có cái gì của “vua” mà lại tầm thường
đến độ hoặc (a) làm khán giả nghỉu tiu
nản chán, hoặc (b) làm họ nổi điên,
hoặc (c) ngay cả thời Trung Cổ người
dân già trẻ lớn bé nam phụ lão ấu an toàn đến xem các võ sĩ giác đấu đánh nhau dưới
sân để chỉ một người còn sống dưới sân hoặc tay không đánh nhau với sư tử dưới
sân để chỉ một bên còn sống dưới sân chứ không như thời Thế Kỷ XXI
“bốn-chấm-không” văn minh hiện đại vậy mà một cô gái trên khán đài Bóng Đá Soccer lại bị bắn hỏa pháo đốt
xuyên thấu đến xương như ở Sân Hàng Đẫy.
B) Phụ Trợ
Bóng Đá
Bản
thân Bóng Đá Soccer đã không ra chi
về luật đá bóng (trọng tài thiếu công cụ/năng lực giám quản vậy mà quyết định của
hắn ta/ả ta lại thuộc loại bất khả thu hồi irrevocable),
phong cách thi đấu trẻ con childish (ăn
vạ, câu giờ), phong cách thi đấu tàn độc cruel
(“vào bóng ác hiểm” cố ý gây thương tật suốt đời cho đối phương), hành xử vô
pháp barbaric (đánh trọng tài, đập
khán giả), v.v.; do vậy, Bóng Đá Soccer
rất cần đến những phụ trợ.
Tuy
nhiên, các phụ trợ cho Bóng Đá Soccer
lại yếu kém y như bản thân Bóng Đá Soccer,
với 4 vấn nạn nghiêm trọng sau – ít
ra là tại Việt Nam:
1–
Luật pháp nhũn xèo do bị truyền thông chính thống của Đảng tấn công
triệt hạ uy lực của các lực lượng an ninh vũ trang, khiến tiêu cực/tội ác/lưu
manh/hỗn loạn phát bùng trong xã hội vô phương cứu chữa.
2–
Lực lượng an ninh không chuyên nghiệp trong phạm
trù chặn ngăn phạm tội và tiêu diệt tội phạm, như đã được dẫn chứng bằng
hình ảnh minh họa trong bài Công An Việt Nam Đã Hoàn Toàn Sai.
3–
Lãnh đạo Bóng Đá Soccer của Việt Nam bất
tài vô dụng do thiểu năng ngoại ngữ khiến hợp đồng luôn như trẻ nít luôn va vấp
đến độ việc VFF trung ương ngu xuẩn (a)
tạo điều kiện cho huấn luyện viên người Pháp Christian Letard kiện lên FIFA và
liên đoàn buộc phải bồi thường số tiền khổng lồ gần 200.000 USD cho ông này với
thêm một nguy cơ FIFA cấm Việt Nam thi đấu quốc tế trong 3 năm, đã lan ra đến
địa phương Hải Phòng (b) tạo điều
kiện cho cầu thủ Errol Stevens vùng vằng tự ý rời Việt Nam và được FIFA tuyên xử
buộc Việt Nam phải bồi thường cho cẩu thủ người Jamaica này một số tiền khổng
lồ hơn 200.000 USD.
4–
Chính tên hiệu phó một trường đại học “quốc gia” ở Hà Nội vốn là tinh hoa trí
tuệ tiếng Pháp của Đảng Cộng Sản Việt Nam là kẻ tội đồ chức sắc cấp cao của VFF
khi không những dốt đặc tiếng Pháp và đần độn về lĩnh vực hợp đồng (tức Business Contract vốn là chuyên môn đặc
biệt chỉ được giảng dạy ở Đại Học Ngoại Ngữ Hà Nội – Thành Phố Hồ Chí Minh bởi giảng sư Anh Văn Hoàng Hữu Phước) để cho
bản hợp đồng với Christian Letard tầy huầy, mà sau này còn cho thấy sự vô hạnh
khi cố gắng chui lên nóc xe đón đội tuyển Bóng Đá khải hoàn trở về từ Sân Bay
Nội Bài và len cho được lên đầu xe để đón nhận sự tung hô của dân chúng. Thật
hỡi ơi! Trình độ ngoại ngữ và tư cách của một thằng ngợm như vậy lại là tiêu
biểu cho “thế gia vọng tộc” thời Cộng Sản hay sao?
C) Lời
Khuyên Bóng Đá
Trước
sự thật rằng Bóng Đá Soccer rất cần
đến những phụ trợ như trên, 5 lời
khuyên sau luôn là chân lý mà thiếu nó thì Bóng
Đá Soccer của Việt Nam mãi luôn là thứ kịch bản tấu hài rẻ tiền:
1) Luật Pháp:
Luật Pháp phải trên cơ sở tương hợp với luật pháp các quốc gia khác,
đặc biệt là luật pháp các siêu cường quốc và các cường quốc, nghĩa là luật pháp phảinghiêm khắc, còn xửán phải nghiêm minh dựa trên luật pháp nghiêm khắc ấy. Ra rả rao
giảng mãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng rằng “phải xử lý nghiêm
minh” trong khi đất nước không có “luật pháp nghiêm khắc” thì tham nhũng/ăn hối
lộ/lại quả 3 triệu USD bị “xử lý nghiêm minh” 500 triệu VNĐ, cưỡng hôn trẻ em
bị “xử lý nghiêm minh” 200 ngàn VNĐ, v.v., thì cái sự nghiêm minh ấy khuyến khích gia tăng tội phạm tham nhũng/ăn hối
lộ/lại quả, cưỡng hôn/cưỡng dâm, và đốt pháo sáng/tấn công lực lượng an ninh,
v.v.
2) Bộ Công An:
Bộ
Công An nhất thiết phải chủ động lựa chọn duy chỉ một trong hai nhiệm vụ hoặc (a) tiêu diệt tội phạm, hoặc (b) bảo vệ nhân dân. Nếu lựa chọn xong,
phải đấu tranh đấu khẩu đấu lý với Bộ Chính Trị để buộc Bộ Chính Trị phải buộc Quốc
Hội phải sửa đổi Luật Pháp để Bộ Công An làm tốt nhiệm vụ đã tự chọn. Không
quyết liệt như vậy, Bộ Công An không tiêu diệt được tội phạm mà cũng chẳng bảo
vệ được nhân dân. Mà không tiêu diệt được tội phạm cũng chẳng bảo vệ được nhân
dân, Bộ Công An tất nhiên không thể bảo vệ được chế độ và Đảng.
Hiện
nay Bộ Công An chỉ giỏi điều tra phá án
sau khi án đã xảy ra.
Bộ
Công An tiến hành điều tra ra chân tơ kẻ tóc để bắt giữ ai đã chạy xe ngang trụ
sở Công An Quận nọ ở Thành Phố Hồ Chí Minh ném chất nổ vào phá hỏng cơ sở vật
chất và xe cộ. Song, Bộ Công An bất lực hoàn toàn khi chẳng chiến sĩ công an
nào của cái Quận ấy rút súng bắn hạ tên khủng bố ngay khi hắn định vung tay ném
vật thể lạ vào trụ sở công an. Thử hỏi nếu lúc bom nổ không chỉ tường sập và
chục chiếc xe hỏng mà còn có thương vong của hàng chục người dân bên trong,
hàng chục chiến sĩ và lãnh đạo công an bên trong, hàng chục người dân bên
ngoài, thì việc sau đó điều tra ra chân tơ kẻ tóc để bắt giữ được kẻ khủng bố
phỏng có ích gì khi đưa chúng ra tòa để sau đó chúng bị xử tử hình, rồi án tử
được neo lại do Bộ Y Tế không mua được thuốc độc do nước ngoài không bán vì “lý
do nhơn đạo” không ủng hộ Việt Nam Cộng Sản “giết hại tù nhân chống đối chế độ”,
thì phải chăng thiên hạ sẽ đại loạn do thân nhân các nạn nhân sẽ thế thiên hành đạo tàn sát gia quyến các
kẻ tử tù?
Trong
lúc chờ đợi kết quả của sự đấu tranh kiên quyết giành cho được thực quyền, thực uy đó, Bộ Công An
nhất thiết phải:
(a) Yêu cầu Đảng thu hồi “thượng phương
bảo thẻ” của giới truyền thông của Đảng, không cho phép bọn “nhà báo của Đảng” được đứng ngang hàng hoặc
trên đầu lực lượng công an, tuyệt đối không được trực tiếp xen vào “tác nghiệp”
của lực lượng công an, tuyệt đối chỉ được trực tiếp báo cáo với Đảng những vấn
đề hay vấn nạn nào phát hiện được từ hoạt động của lực lượng công an, đơn giản
vì “báo chí” không thuộc bất kỳ ngành nào trong hệ thống Lập Pháp, Hành Pháp,
và Tư Pháp của Quốc Gia – nghĩa là “báo
chí” chỉ là một bộ phận của một cơ quan nào đó của một ngành nào đó của hệ
thống nào đó, và do đó ngang hàng với các bộ phận khác như hậu cần, văn thư, tạp
vụ, v.v., của cơ quan ấy của một ngành ấy của hệ thống ấy, vì vậy báo chí phải
cùng với hậu cần, văn thư, tạp vụ, v.v. phục vụ cho cơ quan ấy của một ngành ấy
của hệ thống ấy chứ bản thân báo chí không được phép ngoi lên ngang hàng với
hoặc ngồi trên đầu hệ thống Lập Pháp, Hành Pháp, và Tư Pháp của Quốc Gia;
(b) Yêu cầu Quốc Hội sửa đổi Luật Hình
Sự, gia tăng hình phạt thật cao cho tội danh “chống đối người thi hành công vụ”
với định nghĩa duy nhất chỉ có 39 chữ tiếng Việt rằng “người thi hành công vụ là người thuộc cơ quan công an, cơ quan điều tra
xét hỏi, cơ quan an ninh tình báo của lực lượng vũ trang đang thực hiện nhiệm
vụ được giao theo chức năng”;
(c) Yêu cầu Quốc Hội sửa đổi Luật Hình
Sự, minh định trách nhiệm của lực lượng an ninh vũ trang phải tiêu diệt ngay kẻ
khủng bố, kẻ đang thực hiện hành vi có thể là khủng bố, kẻ không chấp hành mệnh
lệnh phải buông vũ khí và đầu hàng ngay, kẻ đang có hành vi sắp xâm hại tính
mạng nạn nhân;
(d) Yêu cầu Quốc Hội sửa đổi Luật Hình
Sự, minh định hình phạt tử hình đối với kẻ sát hại cảnh sát/công an đang thi
hành công vụ;
(e) Yêu cầu Quốc Hội sửa đổi các luật có
liên quan, minh định trách nhiệm Nhà Nước trong cung phụng đầy đủ đời sống vật
chất cho cha mẹ/chồng/vợ/con của chiến sĩ lực lượng vũ trang (quân đội và công
an) hy sinh khi thi hành nhiệm vụ mà không nhất thiết phải được công nhận là liệt
sĩ;
(f) Rèn luyện nghiệp vụ cho lực lượng công
an vũ trang trong thẳng tay trấn áp bạo loạn, tiêu diệt tội phạm, sao cho đúng
bài bản chuyên nghiệp – thí dụ cụ thể: khi giám sát an ninh trật tự tại một sân
Bóng Đá Soccer hãy thực hiện theo bài
minh họa trong bài Công An Việt Nam Đã Hoàn Toàn Sainghĩa
là các chiến sĩ trang bị tận răng phải đứng quay lưng về sân, mắt nhìn không
rời khán giả để mỗi chiến sĩ giám quản khán giả từ hàng ghế nào sang hàng ghế
nào theo chiều ngang và từ hàng ghế nào lên hàng ghế nào theo hàng dọc, ghi nhớ
từng gương mặt của số khán giả khoanh vùng đó, và sẵn sàng phóng bay đến đúng
đối tượng vừa vi phạm điều cấm để đánh trấn áp/đập vô hiệu hóa/đè còng trói hắn
ngay, bất kể kẻ vi phạm mặc trang phục thường dân/lực lượng vũ trang/tu sĩ;
(h) Bổ sung trang bị cá nhân hiện nay của lực lượng cảnh sát/công an theo
khuyến nghị khoa học của Hoàng Hữu Phước ở bài Lại Nói Về Trang Bị Cảnh Sát Việt Nam;
Là
một tổ chức lớn, VFF nhất thiết phải chấn chỉnh lại bản thân bằng các cách sau
đây:
(a) Đề ra các quy định thật nghiêm khắc
– có thể nhờ Nghị sĩ Khóa XIII Hoàng Hữu Phước xem qua rồi tư vấn về nội dung
quy định đang có;
(b) Dạy bảo các “chủ sân” về an ninh
trật tự;
(c) Quy định buộc các “chủ sân” chỉ thuê
mướn lực lượng công an chuyên nghiệp và công ty bảo vệ chuyên nghiệp để bảo vệ
an ninh trận đấu, có hợp đồng với lực lượng công an chuyên nghiệp và công ty
bảo vệ chuyên nghiệp theo đó chỉ cần một trong số các nhân sự làm nhiệm vụ bảo
vệ an ninh trật tự đứng quay mặt nhìn vào sân theo dõi trận đấu là sẽ không
thanh toán tiền thuê, đồng thời buộc bên cung cấp dịch vụ bảo vệ phải bồi
thường theo điều khoản quy định ở hợp đồng – có thể nhờ Nghị sĩ Khóa XIII Hoàng
Hữu Phước là chuyên gia về Business
Contract thiết kế nội dung hợp đồng dịch vụ này;
(d) Quy định buộc các “chủ sân” chỉ thuê
mướn lực lượng công an chuyên nghiệp và công ty bảo vệ chuyên nghiệp để bảo vệ
an ninh trận đấu, có hợp đồng với lực lượng công an chuyên nghiệp và công ty
bảo vệ chuyên nghiệp theo đó chỉ cần một trong số các nhân sự làm nhiệm vụ bảo
vệ an ninh trật tự không nhìn thấy chính xác nơi xuất phát sự cố/kẻ gây ra sự
cố/bắt giữ ngay được kẻ gây ra sự cố là sẽ không thanh toán tiền thuê, đồng
thời buộc bên cung cấp dịch vụ bảo vệ phải bồi thường theo điều khoản quy định
ở hợp đồng – có thể nhờ Nghị sĩ Khóa XIII Hoàng Hữu Phước là chuyên gia về Business Contract thiết kế nội dung hợp
đồng dịch vụ này;
(e) Do bản thân VFF từ khi thành lập đến
nay không có bất kỳ nhân sự nào giỏi bất kỳ ngoại ngữ nào, VFF nhất thiết “phải”
nhờ Nghị sĩ Khóa XIII Hoàng Hữu Phước là chuyên gia về Business Contract thẩm định lại nội dung tiếng Việt và tiếng Anh
các hợp đồng VFF muốn ký kết với bất kỳ nhân sự nước ngoài nào, và tư vấn giải
thích các điểm nào nhất thiết phải sửa đổi, các từ/nhóm từ/câu/đoạn tiếng Anh
tiềm tàng những bẫy nguy hiểm nào nhất thiết phải làm rõ với FIFA để thay thế,
v.v., trước khi ký;
(f) Khi có sự cố xảy ra liên quan đến
việc thực hiện một hợp đồng đã lỡ kỹ với một nhân sự nước ngoài nào, VFF có thể
nhờ Nghị sĩ Khóa XIII Hoàng Hữu Phước là chuyên gia về Business Contract thẩm định lại nội dung tiếng Việt và tiếng Anh
hợp đồng ấy để tư vấn các nội dung cần phải dựa vào để dùng làm thế mạnh thắng
kiện hoặc tư vấn buông xuôi chấp nhận bồi thường nhanh do hợp đồng lỡ ký ấy đã
phạm những dại dột vô phương cứu chữa nào ở những điều khoản nào, v.v. và v.v.
4) Chính Phủ:
Với
sự hiểu biết rằng Chính Phủ rất cần có vô số các gameshow trên truyền hình để
tạo một hấp lực khiến mọi người trong xã hội không còn thời gian chú mục đến những
thất bại triền miên của Nhà Nước trong quản lý kinh tế, quản lý cán bộ cấp cao,
quản lý chiến lược, quản lý chinh sách, và quản lý xử lý các vấn nạn tự tạo về kinh tế/cán bộ/chiến
lược/chính sách;
Với
sự hiểu biết rằng Chính Phủ rất cần có Bóng
Đá Soccer để tạo một xung lực tích cực trong xã hội nhằm tạo nên một mãng
hồng giữa những thất bại đen tối triền miên về quản lý kinh tế, quản lý cán bộ
cấp cao, quản lý chiến lược, quản lý chinh sách, và quản lý xử lý các vấn nạn tự tạo về kinh tế/cán bộ/chiến
lược/chính sách;
Tôi
vẫn cần có các khuyến nghị sau dành cho Chính Phủ đối với Bóng Đá Soccer rằng Chính Phủ:
(a) Hãy để Bóng Đá Soccer cho VFF quyết định theo cơ chế thị trường, nghĩa là hoàn
toàn không có sự đầu tư về tiền bạc/công
sức/thể chế ưu ái từ Chính Phủ, vì Bóng
Đá Soccer sẽ không bao giờ là thứ problem-free
tức thứ không-xảy-ra-vấn-nạn, nghĩa
là Chính Phủ đừng để Bóng Đá Soccer
trở thành một thứ Kiêu Thể như Đảng
đã làm Truyền Thông thành một thứ Kiêu
Báo vậy, làm hỏng bét cả nền thể dục thể thao nước nhà; và
(b) Hãy có những sự đầu tư về tiền bạc/công sức/thể chế ưu ái từ Chính
Phủ cho những bộ môn thể dục thể thao khác để làm bệ phóng ích lợi cụ thể cho thanh thiếu niên Việt Nam trong các bộ môn lành mạnh rèn luyện sức khỏe cá nhân (bơi lội, điền kinh,
thể dục dụng cụ, bắn cung), các bộ môn rèn luyện sức mạnh dũng mãnh tập thể kiêu hùng (Bóng Đá Rugby kiểu riêng của Mỹ hay
Bóng Đá Rugby kiểu Anh cùng phần còn lại
của thế giới), và các bộ môn rèn luyện sức
mạnh tập thể khéo léo (Bóng Chuyền và Bóng Rổ);
5) Khán Giả:
Mỗi
người có những sở thích riêng. Tôi rất ghét một số món ăn miền Bắc (như Phở,
Bún Chả, Chả Cá) và một số món ăn miền Trung (vì “tinh tế” đến độ kỳ lạ khi gói
một đống lá vậy mà bánh thì nhỏ xíu và mỏng dính). Tôi rất ghét các thể loại
nhạc Việt dù tân hay cổ, và chỉ thích một ít bài ca trong đó có vài bài của Lưu
Hữu Phước và một bài duy nhất của Trịnh Công Sơn tựa đề Huyền Thoại Mẹ. Tôi chẳng thấy Truyện
Kiều hay ở chỗ nào. Tôi không cho là văn học hiện đại Việt Nam có
tác phẩm nào ra hồn. Tôi thích xem đấu tennis
giải Masters hay Grand Slam bất kể đơn nam hay đơn nữ chứ không phí giờ xem tennis Việt Nam hoặc tennis quốc tế ATP/WTA nào dưới 500. Tôi
thích xem Bóng Đá Rugby.
Đối với Bóng Đá Soccer ở Việt Nam tôi
chỉ thích xem giải nữ và thực sự đã yêu cầu công ty nước ngoài của tôi tài trợ
cho Bóng Đá Nữ Việt Nam mà một bài
viết trước đây có đăng ảnh tôi đang dự lễ tôn vinh họ. Đối với Bóng Chuyền ở Việt Nam tôi cũng chỉ thích xem giải nữ.
Tất
cả những điều trên tất nhiên không có giá trị để khuyên người khác noi theo. Do
vậy, các chi tiết dưới đây chỉ là những khơi gợi tham-khảo-đọc-chơi-cho-biết:
(a) Tôi chỉ xem Bóng Đá Soccer Nam nếu
đội tuyển Việt Nam thắng trận cuối cùng để đoạt cúp vô địch, nghĩa là tôi sẽ
tìm video clip xem lại những pha ghi
bàn trong trận đấu đó của bên thắng trận, chứ không phí thì giờ xem trực tiếp
truyền hình, vì như người Mỹ tôi không chấp nhận xem sự múa may điên khùng trên
sân mà rốt cuộc tỷ số chỉ là 0-0 hoặc 1-0 hoặc phải đá thêm giờ rồi kết thúc
bằng trò đá luân lưu dở hơi dỡ ẹc quái đản chỉ để giải quyết sự bất lực của mấy
chục “ngôi sao bóng đá” cả hai đội chạy loi choi phí thờ gian mà chẳng làm nên
trò trống gì;
(b) Tôi không bao giờ đến sân vận động
Bóng Đá ở Việt Nam để xem trực tiếp một trận đá bóng vì tôi không muốn chung
đụng với những kẻ ác tâm tiềm tàng có thể vì thua cá độ mà nổi điên gây họa
trên khán đài hoặc thất học đến độ bắn pháo sáng trực tiếp vào con người;
(c) Tôi không bao giờ đến sân vận động
Bóng Đá ở Việt Nam để xem trực tiếp một trận đá bóng vì tôi không muốn ở chung
chỗ với những nhân viên an ninh trật tự cũng có mặt để cùng khán giả mãi mê
ngắm xem trận đấu chứ không phải đến để bảo vệ tôi và khán giả được xem trận
đấu bình an;
(d) Tôi không bao giờ đến sân vận động
Bóng Đá ở nước ngoài để xem trực tiếp một trận đá bóng giữa hai đội bất kỳ nào
vì tôi biết rõ thế nào là hooligan
nên không muốn thành đối tượng của một Nhân
Quả Lãng Xẹt chung đụng với những kẻ ác tâm tiềm tàng có thể vì thua cá độ
mà nổi điên gây họa trên khán đài và ngoài đường phố;
(e) Tôi không bao giờ đến sân vận động
Bóng Đá ở nước ngoài để xem trực tiếp một trận đá bóng giữa hai đội bất kỳ nào
vì tôi biết rõ thế nào là khủng bố
nên không muốn thành đối tượng của một Nhân
Quả Lãng Xẹt cho một trả thù báo oán của Hồi Giáo Cực Đoan gây thảm họa nổ
bom giật sập khán đài gây thương vong lớn.
Tóm
lại, Bóng Đá Soccer ư? Tôi không bao
giờ phí tiền bạc và thời gian cùng an nguy sức khỏe cho nó, vì cuộc sống của
tôi có giá trị hơn kho châu báu thì lẽ nào lại để bị dọa đe vấy bẩn nguy hiểm
tại sân của những kẻ không chuyên nghiệp từ chủ sân, trọng tài, đến huấn luyện
viên, cầu thủ, và bảo vệ sân; chưa kể còn phải ngồi chung đụng với những kẻ
ngồi quanh rất có thể đang dấu trong người hỏa pháo sẵn sàng gây khói ngạt chết
người cho các khán giả có tiền sử hen suyển, gây khói dày đặc tạo thời cơ cho
những kẻ biến thái cưỡng hôn/cưỡng dâm ngay ghế khán đài, hoặc gây sát thương
cho khán giả khán đài đối diện, hoặc gây dẫm đạp kinh hoàng khi có tiếng nổ lớn
vang ra?
Các
bạn vẫn còn muốn đến sân dù bạn trẻ đẹp và còn tương lai xán lạn phía trước, thì
đó là quyền của các bạn. Là một nghị sĩ (Khóa XIII) tôi tuyệt đối tôn trọng
quyền tự do của các bạn và sẽ luôn bảo vệ quyền tự do đó của các bạn khi các
bạn cần đến.
Là
một nhà tư vấn thấu thị, tôi viết bài này. Một
khi khán giả – tức “khách hàng” – không được “chủ sân” và VFF xem như những vị “vua/nữ
hoàng”, và sinh mạng của “khách hàng vua” bị xem rẻ hơn rác đến độ ai muốn bắn
hỏa pháo vào chân nữ hoàng thì cứ tự do bắn, trong khi “chủ sân” và VFF chỉ xem
trọng tài là “vua” và môn Bóng Đá khỉ gió ấy là “vua”, thì Hoàng Hữu Phước tôi
đây thấu thị rất rõ rằng tôi rồi vẫn sẽ còn phải mắng mỏ “chủ sân” và VFF dài
dài.
Hoàng
Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Nghị-sĩ Khóa XIII, Nhà Tư-vấn Thấu Thị
Ghi chú: Khi có nhu cầu liên quan đến Business
Contract cần đến tư vấn của Nghị Sĩ Khóa XIII Hoàng Hữu Phước, xin các “khách
hàng vua/nữ hoàng” hãy đến Văn Phòng Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Thành Phố Hồ Chí
Minh số 2bis Lê Duẩn Quận 1 để lấy số điện thoại liên lạc trực tiếp với trợ lý
của Nghị sĩ Khóa XIII Hoàng Hữu Phước để được hướng dẫn địa chỉ thư tín bưu
điện của Văn Phòng Nghị Sĩ Khóa XIII Hoàng Hữu Phước. Xin lưu ý: chỉ nhận thư nào
gởi bưu điện dạng bảo đảm hoặc phát chuyển nhanh. Không nhận và không mở đọc
bất kỳ thư nào gởi tay hoặc gởi thường qua bưu điện. Không nhận bưu kiện. Không
mở đọc email.
Hoàng
Hữu Phước, Thạc Sĩ Kinh Doanh Quốc Tế, Nghị Sĩ Khóa XIII, Nhà Thế Giới Sử
Nghiên, Nhà Việt Nam Cộng Hòa Học, Nhà Tư Tưởng Cộng Sản Dân Tộc Thiên Khổng
13-9-2019
Mở Mồm Bài
Mở Mồm Bài tức là Nhập Đề.
Là thầy phù thủy ngôn từ, tôi hay nhảy múa với ngôn ngữ dù đó là tiếng Anh hay
tiếng Việt. Mà nhảy múa phải “phăng-tê-zi” mới là bậc thầy. Nên trong tất cả
các bài viết của tôi dù là văn vần hay văn xuôi, dù là Tiếng Việt hay Tiếng Anh
hay Tiếng Hán Việt, hiện tượng tôi chế tạo từ mới tức coinage là độc nhất vô nhị trên thế gian hàn lâm này ít ra là ở
Việt Nam (tức so với thế gian tiếng lóng
hạ tiện của truyền thông thấp đẳng ít ra cũng là ở Việt Nam).
Ở
Việt Nam tivi đang có cái chương trình gọi là Ký Ức Vui Vẻ. Tôi chớ biết chương trình đó là gì vì tôi không phải
là tay chơi mạt hạng playboy để suốt
ngày giải trí giải khuây giải sầu giải buồn giải rượu để đi giải suốt từ gameshow này đến gameshow nọ trong khi tôi luôn dành thời gian cho những gameshow thượng đẳng (trước đây là Apprentice của Donald Trump, nay là Got Talent của Mỹ/Anh/Á) mà thôi. Cách giảitrí
duy nhất của tôi khi đã vắt hết sức lực làm việc mệt nhoài mỗi ngày là khi đêm
xuống sẽ…sáng tác viết lách hoặc…ngủ vùi để đắm mình vào những cuộc du hành kỳ
thú đục thủng mọi Great Wall tức Đại Thành (tức cái mà đám quỳ mọp run sợ
trước bọn Tàu gọi là Vạn Lý Trường Thành)
của thời gian và không gian. Tất cả những gì tôi quan tâm đến đều phục vụ cho
việc mở rộng tầm mắt hàn lâm, đào sâu sự hiểu biết hàn lâm, thưởng ngoạn hàn
lâm, và chất đầy thêm vào kho tàng tri thức hàn lâm trong đo có kho tàng Sử
liệu. Nếu Ký Ức Vui Vẻ của thiên hạ
để thiện hạ giải trí thì mặc xác thiên hạ. Tôi có những ký ức riêng phục vụ cho
sự hiểu biết của loài người đối với những thông tin mà họ chưa từng biết đến,
chẳng hạn như về Việt Nam Cộng Hòa,
thứ mà tuy gần cận nhất mà họ vẫn chả biết gì nên nói tầm bậy tầm bạ về cái tức
cười gọi là Hải Chiến Hoàng Sa. “Hải
chiến” ư? Có đấu với nhau trên biển mới là “hải chiến” chứ! Tàu Tàu có đại bác
tầm bắn xa vượt trội hơn, và khi tấn công đâu phải thời trung cổ đâu mà dàn
binh bố trận hoặc cưỡi ngựa ra khiêu chiến hoặc cho treo “Miễn Chiến Bài” trên cửa thành, mà là bí mật tấn công cấp tập chớp nhoáng “tiên hạ thủ vi cường”, nghĩa là tàu Tàu
rình rập bất ngờ từ cự ly an toàn tuyệt đối bắn cấp tập đánh úp tiêu diệt đối
phương theo đúng bài bản muôn đời của binh pháp, trong khi đối phương vừa bị
bất ngờ vừa có thói quen vô tư nhậu nhẹt trên bờ (trên đất của hải đảo) với
lòng tin tuyệt đối vào ô dù bảo vệ bao trùm uy lực của Đệ Thất Hạm Đội hùng mạnh của đại siêu cường quốc Hoa Kỳ án ngữ
Biển Đông nên không “đấu” gì được do đại bác nếu có bắn đáp trả nhờ tàu Tàu đã
bắn trượt thì cũng không bay được đến tàu Tàu. Bị đánh một chiều như vậy mà gọi
là “hải chiến” ư? Bọn“nhà Sử học” phản Đảng và truyền thông phản Đảng ngu hết biết! Phải
viết Sử đúng như vầy: “các chiến hạm Tàu
bất ngờ khai hỏa bắn hỏng các chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa đang neo đậu ở Hoàng
Sa rồi pháo kích đan lưới lên đảo gây thương vong lớn cho quân Việt Nam Cộng
Hòa trú đóng trên đảo rồi ào ạt đổ bộ tràn lên đảo gây ra cuộc tàn sát chỉ để
lại vài binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa làm tù binh nhằm phô trương thanh thế”
mới hợp lý. Viết “hải chiến Hoàng Sa”
là ăn cắp ý tứ xạo xạo tự khoe của bọn bại trận. Viết “binh sĩ Việt Nam Cộng
Hòa hy sinh bảo vệ đảo” cũng là ăn cắp ý tứ xạo xạo tự khoe của bọn bại trận.
Viết “cần tôn vinh những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa anh dũng hy sinh bảo vệ chủ
quyền biển đảo thiêng liêng của tổ quốc” là đúng theo ý tứ của bọn truyền thông
đần độn của Đảng Cộng Sản khi chúng lúng túng tìm cách đậy che 3 sự thật là (a) chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã không hề cực lực phản đối
Tàu khi xảy ra cái “hải chiến” ấy, (b)
chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cũng đã không hề cực lực phản đối
Tàu trước khi Tàu công khai vẽ lại bản đồ chủ quyền Tàu trên toàn bộ Biển Đông
chỉ chừa cho Việt Nam vùng nước ven sát bờ làm chỗ neo đậu tàu đánh cá, và (c) truyền thông Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam muốn thanh minh rằng “ngư
dân chúng tôi cũng đã dũng cảm đổ máu hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển đảo
thiêng liêng của Tổ Quốc Việt Nam y như các anh vậy.”
Thật đớn nhục ê chề! Muốn “chống Tàu” mà cũng phải kiếm cách nói vòng
vo ẩn núp như thế ư!
Tất
cả các bài viết của tôi đều có phần mở mồm phức tạp, đơn giản chỉ vì tôi xem
người đọc như những bậc thầy đang chấm
luận án học cao của tôi, mà đã là luận án của giới học thiệt chứ không học giả
thì luôn có phần mở đầu hoành tráng thậm chí phải nêu luôn phần tiểu sử của tác
giả cùng phương pháp luận của quy trình nghiên cứu được áp dụng trong hình
thành luận án. Tất nhiên, luận án luôn được kết thúc bằng phần đăng chi tiết
các nguồn tham khảo bất kể chính-phụ.
Tự
giới thiệu tác giả: Hoàng Hữu
Phước là người Việt Nam duy nhất đứng đầu về Anh Ngữ mà bằng chứng là từ thời Lạc
Long Quân cho đến tận ngày hôm nay là 12-9-2019 vẫn không có bất kỳ người Việt
hay người gốc Việt nào có bất kỳ bài viết nào dù chỉ trên mạng xã hội bằng tiếng Anh thuộc loại formal hùng biện về chính trị/văn hóa/xã
hội cũng như từng viết thư cho các lãnh đạo nước khác để tranh biện bảo vệ
chính nghĩa nước nhà mà sánh được về chất lượngtiếng Anh
Formal cùng tính hùng biện thượng đẳng như bức Thư Gửi Đức Giáo Hoàng Francis cả.
– Phát hiện sự bất khả tin cậy của Việt Sử đối với chi tiết “Giả Vương” khi chính Chính Sử “công khai” nêu việc người hành lễ “Bảo Tất” quỳ ôm chân của Càn Long nhận Càn Long làm cha và xưng con không phải là Hoàng Đế Quang Trung mà chỉ là người đóng thế vai thậm chí nêu luôn tên họ đầy đủ của kẻ đó thế mà cho đến tận ngày nay là 13-9-2019 cũng không rõ chi tiết nhân thân người đó cũng như thân nhân và hậu duệ người ấy là ai hay những ai đang làm việc hay làm ruộng ở địa phương nào ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hay đã vượt biên sang đâu kỳ 30-4-1975.
– Tuyên bố Việt Nam Cộng Hòa là thể chế chính trị Zero Đảng thời Ngô Đình Diệm vì toàn bộ các “chính khách” không hề từ “chính đảng” tức đảng chính trị sẵn có nào cả, còn Đảng Cần Lao Nhân Vị (mà thực chất là Đảng Công Giáo) của Ngô Đình Diệm chỉ mới được tượng hình trên giấy nháp. Đây là cơ sở để Hoàng Hữu Phước hùng biện rằng không bất kỳ ai ở Việt Nam Cộng Hòa có quyền nói về “Đa Đảng” cả, và rằng Việt Nam Cộng Sản hiện nay “ Độc Đảng” tốt hơn Việt Nam Cộng Hòa “Zero Đâng” và chỉ thua có mỗi Mỹ “Lưỡng Đảng Sinh Đôi hoặc Sinh Sản Vô Tính” mà thôi.
– Tuyên bố Việt Nam Cộng Hòa thời Nguyễn Văn Thiệu có Đảng Dân Chủ Của Nguyễn Văn Thiệu với đảng kỳ cờ vàng sao đỏ được thành lập với chỉ một mình Nguyễn Văn Thiệu làm Đảng Trưởng/Phó Đảng Trưởng/Tổng Thư Ký/Phó Tổng Thư Ký/Đảng Viên Duy Nhất (qua “lễ thành lập” tại nơi đối diện với Điện Lực Gia Định, gần Bịnh Viện Nguyễn Văn Học, xéo với Lăng Ông Bà Chiểu, gần trường Nguyễn Bá Tòng Gia Định nơi Hoàng Hữu Phước lúc ấy đang học lớp 10), chỉ tồn tại vài ngày, thậm chí dấu nhẹm cả báo chí (do báo chí có nhiều “cán binh cộng sản” thâm nhập nếu biết sẽ viết bài miệt thị mỉa mai xiên xỏ) nên không bất kỳ báo nào của Việt Nam Cộng Hòa và của thế giới biết để đến chụp hình đưa tin, và tất nhiên không một quan chức nào của chính phủ Mỹ và của đồng minh cũng như chả có đại sứ nước nào đến dự cả nên chưa hề có thông tin nào về “Đảng Dân Chủ” được nhắc đến trong bất kỳ quyển hồi ký nào của bất kỳ người nước ngoài nào hoặc ngay cả người Mỹ nào dù của CIA, Bộ Ngoại Giao, Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, v.v., hay của “tướng tá của Thiệu” cả. Chi tiết này thật không may cho Việt Nam Cộng Hòa vì tình cờ chính hôm ấy Hoàng Hữu Phước không đi học bằng xe đạp mà bằng đi bộ ngang qua do thời trai trẻ thích vận động thể lực đi bộ từ nhà ở hẽm 16/72 Nguyễn Thiện Thuật Quận 3 đến trường gần ngã ba đường Hoàng Hoa Thám và Chi Lăng Gia Định – nay là ngã ba Hoàng Hoa Thám và Phan Đăng Lưu Quận Bình Thạnh (và vì có dụng ý muốn cố tình “tình cờ” gặp Tiên Khải là nữ sinh hoa khôi trường nữ trung học Lê Văn Duyệt – nay là trường Võ Thị Sáu – gần Lăng Ông Bà Chiểu, hôm nào cũng đi bộ với tà áo dài trắng thướt tha về nhà nàng ở một hẽm nhỏ trên đường Nguyễn Văn Học – nay là Nơ Trang Long) có đứng lại nhìn với sự kinh ngạc tột độ trước sự ngu xuẩn cực kỳ của lá cờ vàng sao đỏ nên có tư thế trưởng thượng để mắng Việt Nam Cộng Hòa là Zero Đảng vì ai đời đã là “chính khách” mà toàn bộ chính quyền không bất kỳ ai thuộc một “chính đảng” tức đảng chính trị sẵn có nào cả mà phải đẻ ra cái đảng “Dân Chủ” ấy khi đã thua thảm hại trên chiến trường sắp đẩy Việt Nam Cộng Hòa đến thời điểm cáo chung. Đây là cơ sở để Hoàng Hữu Phước hùng biện rằng không bất kỳ ai ở Việt Nam Cộng Hòa có quyền nói và rao giảng về “Đa Đảng” cả, và rằng Việt Nam Cộng Sản hiện nay “Độc Đảng” khá hơn Việt Nam Cộng Hòa “Zero Đâng” và chỉ thua có mỗi Mỹ “Lưỡng Đảng Sinh Đôi Hoặc Sinh Sản Vô Tính” mà thôi.
Như vậy, với lợi thế Tam Hoa của (a) một bậc thầy bậc nhất về Anh Ngữ có 50 năm nghiên cứu tài liệu nước ngoài đặc biệt về thể loại non-fiction dù bản thân sáng tác nhiều nhất là fiction, (b) một nhân vật từ thủa nhỏ đã quan tâm đến kinh tế/chính trị/xã hội/văn hóa/học thuật/lịch sự/lịch sử để làm Thầy thiên hạ và làm chính trị nghị viện, và (c) một công dân gương mẫu yêu công lý và chân lý được một người dân đen gia giáo Thiên Khổngthông tuệ tung hô ban cho danh-nhân-hiệu “Nhà Ái Quốc”, Hoàng Hữu Phước có đầy đủ tư cách để nói vê Sử ở Việt Nam hơn rất nhiều kẻ đượctoàn bộ truyền thông chính thống đỏđần độn tung hê ban cho nghệ-nhân-hiệu “Nhà Sử Học”.
Tự giới thiệu phương pháp luận: Do Việt Sử không là nguồn đáng tin cậy tuyệt đối, do Sử Việt ngày nay bị sai lạc trong định nghĩa/định hình/định kiến/sử dụng nhân sự/đào tạo nhân sự/mặc định chủ quan/phi phương pháp luận/bất hàn lâm, Hoàng Hữu Phước đã (a) dựa vào sự thật thật sự khách quan do chính tác giả chủ quan chứng kiến/hiểu biết/nhận biết, (b) dựa vào trí nhớ của bản thân và người thân trong gia đình đã cùng trải qua sự thật khách quan ấy, và (c) dựa vào quy trình thẩm định/đối chiếu/sàng lọc/gạn khơi/bóp vắt/phơi phóng/phun sương/nhúng nước thông tin của bản thân mỗi khi bước vào kho tàng Động Kỳ Quan The Cave of Wonders khổng lồ mà Hoàng Hữu Phước cùng chàng thanh niên tên Kim-Cương-ThôDiamond-in-the-Rough mỗi người thỏa thuận nắm giữ một phần hai chiếc Bọ Hung Vàng Golden Scarab Beetle. Do trên đời chỉ có Hoàng Hữu Phước và Kim-Cương-Thô bước vào được trong Động Kỳ Quan, những ai không tin vào các sự thật kỳ quan sau, xin cứ tự nhiên kiểm tra chéo trực tiếp với Mr. Kim-Cương-Thô (tại địa chỉ WDS Complex, Burbank, Los Angeles, California, USA tức Khu Phức Hợp WDS, Thành Phố Burbank, Quận Los Angeles, Tiểu Bang California, Hoa Kỳ)chứ không còn cách nào khác cả.
Ruột Tượng Bài
1) Ngụy Quân/Ngụy Quyền:
Tôi
đã viết rất nhiều bài về Ngụy Quân & Ngụy Quyềnvới tư
cách nhà ngôn-ngữ-chính-trị học đầu
tiên và duy nhất của Việt Nam, để giải thích ngữ nguyên, giải thích tự loại,
giải thích phạm vi sử dụng, và giải tỏa tuyệt đối các tranh cãi.
Tuy
nhiên, gần đây có một sự thật thật sự
chứng minh tôi có đầy đủ lý do thật sự để thật sự miệt thị đại đa số bọn Thạc Sĩ/Tiến Sĩ mà Nhà Nước lấy tiền thuế
của dân để tự tiện đào tạo về chễm chệ nắm quyền ở tất cả các viện đại học ở
Việt Nam khi có thằng hiệu trưởng tuyên bố vung vít với sinh viên của nó về
việc không nên sử dụng từ Ngụy Quân/Ngụy
Quyền, tôi buộc lại phải nêu tiếp các giải biện sau đây cho sinh viên toàn
quốc tham khảo thêm.
a-Vấn Đề Ý Nghĩa của Ngụy Quân/Ngụy Quyềncùng các vấn đề liên quan đến phạm trù ngữ
nguyên, tự loại, ngữ nghĩa, biện pháp tu từ, phạm vi sử dụng, và sự tranh cãi:
xin mời đọc tại các liên kết liệt kê ở phần tham khảo.
b- Vấn Đề Hình Thành của Ngụy Quân/Ngụy Quyền:Ngụy Quân/Ngụy Quyền được cấu tạo trên cùng cơ sở ngôn ngữ với Việt Cộng/Cộng Quân tức theo cùng công thức tạo từ (coinage tức wordformation), theo đó cùng mang ý nghĩa bình dân, miệt thị, địa phương, và vắn tắt, chưa kể còn cùng trên nền Hán Việt. Đó là sự giống nhau về cấu tạo từ. Sự khác biệt gồm 4 mặt gồm:
(i) Do người Bắc sâu sắc về ngôn ngữ hơn
người Nam về ngôn ngữ, từ ngữ Ngụy Quân/Ngụy Quyền mang tính
miệt thị rõ nét rõ ràng hiễn hiện cụ thể hơn và do đó gây ra nỗi đau lớn hơn
cho đối tượng bị gọi là Ngụy Quân/Ngụy
Quyền. Trong khi đó, từ ngữ Việt
Cộng/Cộng Quân được Việt Nam Cộng Hòa chế ra như một từ lóng với niềm tin chủ quan rằng từlóng tự động mang ý
miệt thị vì chủ quan cho rằng sử dụng cụm từ Hán Việt đầy đủ của “quân đội cộng sản Việt Nam” là sự tôn
trọng nên nhất thiết chế ra từ ngữ mới ngắn ngủn Việt Cộng/Cộng Quân nhằm tầm thường hóa cái quân đội ấy.
(ii) Với sự hỗ trợ vô hạn về quy mô của truyền thông chính thống Việt Nam Cộng Hòa khi dùng chữ Việt Cộng/Cộng Quân trên tất cả các phương tiện truyền thông không hạn chế, cùng với sự đánh giá cao mang tính sở thích nghề nghiệp của truyền thông chính thống các nước Âu Mỹ ủng hộ các từ viết tắt Việt Cộng/Cộng Quân và VC, với ngữ nghĩa dễ hiểu cùng phát âm dễ dàng của Việt Cộng và VC, và với sự chấp nhận dễ dàng không dị ứng của người dân Miền Nam, những từ lóng Việt Cộng và VC được nâng hóa tu từ tức quy trình lexicological upgradation trở thành từ ngữ chính thức được sử dụng rộng khắp trên toàn thế giới như một sự đương nhiên thành VC và Vietcong. Tuy nhiên, cộng sản Việt Nam do biết ngữ nguyên của Việt Cộng/Cộng Quân/VC là tiếng lóng miệt thị nên đã không bao giờ sử dụng hoặc chấp nhận sự tồn tại của từ ngữ Việt Cộng/Cộng Quân/VC để tự dùng gọi chính mình.
(iii) Với sự hỗ trợ rất hạn chế của truyền thông chính thống Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không trên quy mô vượt ngoài biên giới Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Ngụy Quân/Ngụy Quyền được sử dụng chỉ trên báo giấy và phát thanh ở Miền Bắc, không được người ở Miền Nam nghe nói đến trừ số ít – trong đó có Hoàng Hữu Phước – chịu khó lén bắt nghe đài Giải Phóng vào ban đêm, không phù hợp với cách nghe của người Miền Nam (dù cả hai từ Việt Cộng và Ngụy Quân đều được cấu tạo bằng từ Hán Việt) vì người bình dân Miền Nam cho rằng “Ngụy” là từ ngoại lai đặc sệt Tàu mà ý thức hệ truyền thống dân tộc của dân Miền Nam luôn là chống Tàu, không được truyền thông chính thống các nước Âu Mỹ ủng hộ do không hiểu ý nghĩa đãvậy không thể viết tắt mà có viết tắt thành NQ thì cũng phát âm lọng cọng như “Anh Cu” hoặc “En K-zu”. Tất cả khiến những từ lóng Ngụy Quân/Ngụy Quyền bị hạ hóa tu từ tức quy trình lexicological degradation trở thành từ ngữ ít được biết đến obsolete không được sử dụng rộng khắp trên toàn thế giới.
(iv) Chế tạo từ – nhất là từ lóng – là một quyền tự do trừ phi có quy định khác và cụ thể của luật pháp. Báo chí chính thống Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã tránh được thảm họa bị vùi dập dưới bùn nhơ bởi Nghị sĩ Hoàng Hữu Phước nhờ Nghị sĩ Hoàng Hữu Phước đã vì Đảng mà không nỡ khởi kiện họ khi họ tấn công ông vụ Tứ Đại Ngu, thậm chí một thằng nghị sĩ giáo sư tiến sĩ luôn độc quyền hưởng lợi từ tất cả các “đại (dự) án cải cách giáo dục” khiến giáo dục nước nhà lụn bại thất bại đã vi phạm pháp luật Việt Nam khi trả lời phỏng vấn của báo chí sủa rằng hắn ta run sợ trước cách dùng từ “Đĩ” của Nghị sĩ Hoàng Hữu Phước trong bài Tứ Đại Ngutrong khi Nghị sĩ Hoàng Hữu Phước là một nhà ngôn ngữ quý phái nhất Việt Nam luôn chỉ sử dụng từ ngữ văn học, mà chữ “đĩ” đã được dùng làm tên của một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam (“Làm Đĩ”) cũng như được sử dụng chính thức và nhiều lần trong các phiên bản tiếng Việt ở Chương Khải Huyền của Thánh Kinh Tân Ước của Thiên Chúa Giáo và chữ “đĩ” cũng chưa từng được nêu đích danh cấm đoán trong bất kỳ bản liệt kê nào của bất kỳ bộ luật nào của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – kể cả luật bất thành văn của đạo đức truyền thống thuần Việt. Lính Mỹ tự do gọi chiến binh cộng sản Việt Nam là “Charlie”. Lính Thiệu tự do gọi chiến binh cộng sản Việt Nam là “Việt Cộng”. Chiến binh cộng sản Việt Nam tự do gọi Lính Thiệu là Ngụy Quân (rồi nhân tiện tự do gọi chủ nhân của Ngụy Quân là Ngụy Quyền). Chiến binh cộng sản Việt Nam tự do không gọi Lính Mỹ là Lính Mẽo dù từ này do chính các “nhà báo cộng sản” hoạt động nội tuyến tự do chế ra để tự do sử dụng trên báo chí Việt Nam Cộng Hòa. Cay đắng đớn đau vì thua Miền Bắc trên mặt trận ngôn ngữ (Miền Bắc dùng tính từ “ngụy” để phủ định tính chính thống chính thức của “chính quyền”), phe Thiệu cay cú sử dụng các tính từkèm cặp để bôi nhọ “chính quyền” Miền Bắc thành Việt Cộng Khát Máu. Đối với các nhà báo Âu Mỹ vốn là những thầy phù thủy ngôn từ, khi biết ý nghĩa của chữ “khát máu” là gì, họ cho rằng kiểu đặt thêm như thế là dỡ ẹc vì không viết tắt được – chưa kể chẳng có tính hùng biện và thậm chí buộc phải chứng minh cụ thể cái sự khát ấy – nên chẳng nhà báo nào sử dụng, khiến chữ Việt Cộng Khát Máu không thể vượt ra ngoài biên giới cửa mồm của dăm ba tên thất trận chạy tồng ngồng khỏi Việt Nam Cộng Hòa.
c- Vấn Đề Sử Dụng của Ngụy Quân/Ngụy Quyền:
Với
điểm b.iv nêu trên, việc sử dụng Ngụy Quân/Ngụy Quyền hay Việt Cộng ngày nay tùy vào việc người
sinh viên (của cái thằng giáo sư tiến sĩ hiệu trưởng cái trường đại học ấy)
(i) có đã nghiên cứu các bài viết về các khía cạnh ngôn ngữ của ngữ nguyên/ngữ nghĩa/ngữ âm/ngữ tạo của Hoàng Hữu Phước hay chưa; nếu đã đọc và hiểu những gì mình đọc thì hãy tự hỏi bản thân xem
(ii) có đang phát biểu hay đang trình bày với tư cách gì, có phải với tư cách bí thư Đoàn Thanh Niên, có phải đang tham gia trò trả lời câu hỏi “hái hoa dân chủ” nhân ngày lễ lớn, có phải đang thực tập giảng dạy Sử tại tiểu học/trung học hay không; nếu tất cả các câu trả lời là “Không”, thì hãy
(iii) đừng bao giờ tùy tiện sử dụng Ngụy Quân/Ngụy Quyền hay Việt Cộng, đơn giản vì chúng là những từ lóng, chứ không vì kiểu lập luận hàm hồ đầy ngu đần ngu xuẩn của bọn đần độn chống Cộng rằng Việt Nam Cộng Hòa là một “chính quyền” có thật thì tại sao gọi nó là “ngụy”.
Diễn giải thêm cho phần c.iii ở trên, sinh viên cần đọc thêm các bài viết của Hoàng Hữu Phước về “Biển Đông” để tự rút ra kết luận rằng những gì mang tính địa phương thì chỉ có giá trị sử dụng tại địa phương. Những người Cộng Sản Việt Nam năm 2019 và thậm chí năm 3019 vẫn có thể cứ dùng cụm từ “Ngụy Quyền Sài Gòn” trong nội bộ Việt Nam, nhưng khi dịch ra tiếng Anh thì Cộng Sản Việt Nam năm 2019 và thậm chí năm 3019 vẫn phải viết là “the Government of the Republic of Vietnam” tức “Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa”.
Giả
dụ một nước nọ có vay của Việt Nam Cộng Hòa một tỷ USD, thì chủ nhân mới là
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có trách nhiệm phải gánh nợ cho Việt Nam
Cộng Hòa đối với các khoản mà Việt Nam Cộng Hòa đã vay của thế giới, đồng thời
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trở thành tân chủ nhân của tất cả các tài
sản của Việt Nam Cộng Hòa trên thế giới. Sẽ là điều kỳ quái nếu Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam dùng chữ Việt của “Ngụy Quyền Sài Gòn” để dịch ra tiếng Anh
thành “Fake Government of Saigon” rồi vác công hàm ấy đi đòi nợ vì chỉ tạo điều
kiện cho đất nước con nợ ấy từ chối thanh toán vì họ không từng có quan hệ gì
với Fake Government nào của bất kỳ
quốc gia nào tên là Saigon cả.
Tương
tự, Việt Nam muốn gọi cái
biển ấy là Biển Đông thì cứ gọi,
nhưng khi tranh chấp chủ quyền có dùng tiếng Anh thì phải gọi nó là South China Sea. Chỉ có bọn ngu trong các cơ quan Nhà
Nước và truyền thông mới dịch Biển Đông
ra tiếng Anh thành East Sea rồi vác
cái từ ấy ra thế giới để Trung Quốc cười vô mặt rằng “Nị cứ giữ cái East Sea đó đi vì ngộ chỉ làm chủ South China Sea thôi,
sao lại kiện ngộ ra Tòa Án Quốc Tế vậy chớ hả?”
Tương tự, Việt Nam muốn gọi hai cái quần đảo ấy là Hoàng Sa và Trường Sa thì cứ gọi, nhưng khi tranh chấp chủ quyền có dùng tiếng Anh thì phải gọi chúng lần lượt là Paracel và Spratly. Chỉ có bọn ngu trong các cơ quan Nhà Nước và truyền thông mới dịch Hoàng Sa và Trường Sa ra tiếng Anh lần lượt thành Yellow Sand và LongSand rồi vác hai cái từ ấy ra thế giới để Tòa Án Quốc Tế ngơ ngác hỏi “quý vị có ấm đầu không mà kiện đòi hải đảo trên Hành Tinh Lùn Haumea vậy chớ hả?”
2) Cọng Hòa/Cộng Hòa/Cộng Sản:
“Cộng sản” là từ ngữ do người Việt thủa xưa chế tạo ra khi cố dịch chữ communism ra tiếng Việt để phục vụ 4 mục đích không đàng hoàng gồm (a) phải dịch vì ngay cả tên người nước ngoài cũng phải bẽn lẽn cười lấy lòng mấy anh Tàu mới biến Montesquieu thành Mạnh-Đức-Tư-Cưu nữa mà, (b) do có nội hàm “cộng đồng” trong ngữ nguyên tạo nên từ communism nên cách hay nhất là chụp ngay chữ “cộng”, (c) do chủ nghĩa mới này có nói đến “quyền sở hữu tư liệu sản xuất” nên cách hay nhất là chộp ngay chữ “sản”, và (d) dễ dàng hù dọa thiên hạ khờ khạo ít học bằng cách nói xa nói gần nói xiên nói thẳng rằng “cộng sản” nghĩa là gom hết tài sản của nhân dân lại – kể cả gom hết phụ nữ đẹp và con gái còn trinh lại – để dâng hết cho Đảng nên mọi người phải lựa chọn một trong hai cách gồm “chống Cộng” để bảo vệ tài sản và bảo vệ vợ cùng con gái hoặc tự sát cả nhà.
Chính vì có âm mưu quái gỡ buồn cười hoàn toàn kém về ngôn ngữ kiểu người Miền Nam như vậy, giới tinh hoa chính trị Việt Nam Cộng Hòa sau đó lúng ta lúng túng cố gắng tránh né chữ “Cộng” vì nếu “Cộng Sản” là tịch thu tài sản thì “Cộng Hòa” là tịch thucái hòa gì đây. Thế là Ngô Đình Diệm đặt tên nước là Việt Nam Cọng Hòa, bất luận người dân chẳng hiểu “Cọng” là cái cọng cỏ khỉ khô gì cả. Sau đó, Nguyễn Văn Thiệu cho sử dụng Việt Nam Cộng Hòa nhưng lờ đi sự giải thích vì sao Cọng thành Cộng , liệu Cộng của Cộng Hòa có đồng nghĩa với Cộng của Cộng Sản hay không và “chống Cộng” là chống cái “Cộng” nào đây.
Vì
vậy, những người ở Miền Nam khi nhận ra chân giá trị của ý nghĩa và sự thấp kém
giảo hoạt láu cá của ngôn từ thấp kém nớt non của giới lãnh đạo Việt Nam Cộng
Hòa sẽ không còn dị ứng với “cộng sản”, sẽ ưa chuộng “cộng sản” không phải vì
“yêu công bằng” (vì nội hàm của “công bằng” lại có liên quan một cách thơ ngây đến
“sở hữu tài sản”) mà vì “lòng ái quốc”, và sẽ hoặc ngầm ủng hộ hoặc tích cực
tham gia đoàn quân giải phóng – đó là thêm một lý do cho sự tuyệt diệt của Việt
Nam Cộng Hòa.
Ngoài sử liệu nêu trên về ngôn ngữ của Cộng Hòa/Cọng Hòa/Cộng Sản, có thể nói các tranh biện (tranh luận hùng biện) của Hoàng Hữu Phước hơn hai mươi năm qua còn giúp đem đến 8 khẳng định rằng (a) chủ nghĩa cộng sản là một triết thuyết kinh tế vĩ đại của nhân loại, (b) chỉ có thể chống Cộng bằng một học thuyết kinh tế khác mà theo lẽ thường phải mất 1.000 năm mới có thể hình thành, (c) chủ nghĩa cộng sản không bao giờ là một “thể chế chính trị” mà chỉ là đường lối chủ đạo của một đảng chính trị muốn tiến hành cuộc cách mạng, (d) vì vậy một nước cộng sản chủ nghĩa đúng nghĩa phải là như Việt Nam nơi tư bản được hình thành theo một archetype mới cho một motive mới chứ không phải chống lại tư bản và đây là lý do chỉ có Việt Nam đạt một trong hai tiền đề cho sự phát triển vững mạnh cho chủ nghĩa cộng sản – đó là xây dựng tư bản dân tộc và duy trì truyền thống thiên Khổng thuần Việt – trong số những quốc gia mon men sờ chạm vào chủ nghĩa cộng sản tức tên ban đầu của chủ nghĩa xã hội, (e) phong trào “chống cộng” chưa bao giờ là một thực tế nên đã bị Hoàng Hữu Phước lột mặt nạ sau khi Liên Xô sụp đổ rằng thế giới tư bản chỉ đồng lòng “Chống Nga” nên “chống cộng” hoàn toàn biến mất trong toàn bộ thế giới các quốc gia tư bản, (f) thực chất của số người-gốc-Việt khi “chống cộng sản Việt Nam” cũng đã bị Hoàng Hữu Phước hùng biện là “Chống Việt” khiến cụm từ “người-gốc-Việt chống Việt” có thể giúp người nước ngoài bật cười trước sự vô đạo bất lương phi lý của bầy đoàn người-gốc-Việt “chống Việt”, (g) chủ nghĩa xã hội như một tư tưởng lý tưởng mà không là thể chế chính trị nên dần dần xuất hiện các thứ chủ nghĩa xã hội khác nhau trên thế giới kể cả tại nước Mỹ như kế sách của Đảng Dân Chủ sử dụng như một chiêu bài vì nước vì dân và như một vũ khí chiến lược nhằm cạnh tranh với nhân vật thiên tài Donald Trump khiến Donald Trump cứ phải đăng đàn Twitter chửi bới chủ nghĩa xã hội Mỹ hoài, và (h) “người-gốc-Việt chống Việt” đương nhiên chuyển sang bạo động phá hoại và không còn múa may tranh luận do đã thất bại hoàn toàn trên mặt trận sử dụng vũ khí ngôn từ ngôn ngữ ngôn luận – trừ ngôn tình.
3) Thể Chế Chính Trị Quái Đản Của Việt Nam Cộng Hòa:
Trong bài viết Nỗi Buồn Chiến Tranh – Hoàng Hữu Phước Với Chuyện Tình Tự Kể đăng lúc 14g53 ngày 29-12-2010 trên Emotino tại http://www.emotino.com/bai-viet/18930/noi-buon-chien-tranh-hoang-huu-phuoc-voi-chuyen-tinh-tu-ke (Emotino đã bị bọn chuột cống aitee bẩn nhơ mất dạy chống Nghị Sĩ Hoàng Hữu Phước phá sập năm 2012 nên link này hiện không còn truy cập được, nhưng Hoàng Hữu Phước còn giữ bản nháp có thể sẽ đăng lại vào thời điểm thích hợp) mà một đoạn trong đó có nội dung sau:
Sự việc trên cho thấy một sự thật rằng “chính phủ” Việt Nam Cộng Hòa có tổ chức bầu cử tổng thống và quốc hội (thượng viện và hạ viện), nhưng đó không bao giờ đúng và đủ cho một thể chế chính trị gọi là “cộng hòa”, do 3 sự thật sau đây:
(a) Có thực hiện “phổ thông đầu phiếu”
nhưng chỉ có một ứng cử viên tổng thống duy nhất là Nguyễn Văn Thiệu;
(b) Luật pháp quy định có lợi cho giới cầm quyền rằng binh sĩ được ưu tiên bỏ phiếu tại bất kỳ điểm bỏ phiếu nào mà không cần qua các thủ tục rườm rà về chứng nhận nhân thân ở địa phương hay ghi nhận chi tiết quân nhân đến bỏ phiếu; nhờ vậy các đoàn xe “cam-nhông” Mỹ GMC CCKW thiết kế dùng di chuyển 20 quân sĩ Mỹ to đùng ngồi cùng quân trang quân dụng lỉnh ca lỉnh kỉnh thì nay được trưng dụng mỗi xe chở trung bình 50 binh sĩ Việt Nam đứng cùng thân nhân của họ – nếu có ở “trại gia binh” – lần lượt suốt ngày đến tất cả các điểm bỏ phiếu mà mới chỉ ở Sài Gòn thôi để bỏ phiếu bầu ứng cử viên Nguyễn Văn Thiệu thì thí dụ 50 xe chở 2.500 “cử tri quân sự” đến lần lượt đủ hết 100 điểm bỏ phiếu khác nhau cũng bảo đảm dồn được cho Nguyễn Văn Thiệu hơn 12 triệu phiếu bầu rồi; huống hồ trên toàn quốc chỉ cần 20.000 “cử tri quân sự” bỏ phiếu tại 1.000 điểm bỏ phiếu, Thiệu xem như có ngay 20 triệu phiếu bầu lậu để luôn được “toàn quân toàn dân tín nhiệm” tiếp tục làm tổng thống;
(c) Tất cả các Tỉnh Trưởng đều là sĩ
quan quân đội cấp Tá do Nguyễn Văn Thiệu chỉ định, không có chuyện người dân
bầu lên các lãnh đạo địa phương;
Vì
vậy, chữ “Cộng Hòa” trong quốc hiệu Việt Nam Cộng Hòa trong thiết lập bang giao
với Mỹ và các nước đồng minh với Mỹ hoàn toàn không dính dáng gì đến “thể chế
chính trị Cộng Hòa” cả. Với cơ cấu tổ chức lãnh đạo Nhà Nước cấp cao nhất và
lãnh đạo địa phương cấp cao nhất đều là sĩ quan cấp Tá và cấp Tướng, Việt Nam
Cộng Hòa là một “nước” theo thể chế chính trị độc tài quân phiệt.
Có
thể nói: thể chế chính trị của Việt Nam Cộng Hòa là một thể chế quái đản vì
không giống bất kỳ thể chế chính trị nào trong phần còn lại của thế giới cả.
Đó là một thể chế mà nhà chính trị Hoàng Hữu Phước buộc phải gọi là chế độ “độc quân dân” của độc tài + quân phiệt + dân chủ, trong đó người dân có quyền đi bỏ phiếu cho một sĩ quan quân đội duy nhất để người này liên tục làm lãnh đạo tối cao với mọi quyền bính nằm trong tay các sĩ quan cao cấp của quân đội.
Chế độ “độc quân dân” của Việt Nam Cộng Hòa thời Nguyễn Văn Thiệu thoát thai từ chế độ “độcgia Công dân” của Việt Nam Cộng Hòa thời Ngô Đình Diệm, theo đó mớ hổ lốn độc tài + gia đình trị + Công giáo + dân chủ có nghĩa là cái máng cám heo trộn nội dung người dân có quyền đi bỏ phiếu cho một người duy nhất để người này liên tục làm lãnh đạo tối cao với mọi quyền bính nằm trong tay thân nhân của lãnh đạo tối cao, triệt hạ các tôn giáo để Công Giáo độc tôn thành Quốc Giáo, và chặt đầu tất cả những ai dám “tự do” nghĩ đến hai chữ “cộng sản” trong đầu.
4) Nghi Thức Ngoại Giao Quái Đản Của
Việt Nam
Cộng Hòa:
Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vợ của “Ông Cố Vấn” Ngô Đình Nhu là Trần Lệ Xuân. Và Đệ Nhất Phu Nhân của Việt Nam Cộng Hòa chính là Trần Lệ Xuân theo sự cương quyết đòi hỏi của bà với sự đồng thuận của hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Sự quái gở này càng trở nên quái hiếm qua việc tất cả các lãnh đạo Mỹ và các nước đồng minh đều đồng tình cung kính gọi Trần Lệ Xuân là Đệ Nhất Phu Nhân, xem như các nghi thức ngôn ngữ trong ngoại giao đều cứ như trong thời Mạt Chính tức chính trị thế giới suy vi chỉ vì “chống Cộng” mà chấp nhận đạp chà mọi nguyên tắc ngoại giao chính thức chính quy chính đạo.
5) Đĩ Việt Nam Cộng Hòa:
Đã
là người dân Sài Gòn trước 1975, ắt ít ai quên được 6 sự thật rằng:
(a) Đĩ phát triển mạnh ở Sài Gòn để phục
vụ quân Mỹ, quân đồng minh, và quân Việt Nam Cộng Hòa;
(b) Đĩ không lan như nấm tại các tỉnh vì
gia giáo thiên Khổng của người Miền Nam nghiêm khắc miệt thị khinh bĩ
“nghề đĩ” khiến “đĩ” không dám hành nghề;
(c) Ở Sài Gòn thì khu vực “Chú Ía” là
khét tiếng nhất về hoạt động của đĩ;
(d) Các kỳ xã trại ở Sài Gòn là những
thời điểm tương tự “xá tội vong nhân”
để hàng hàng lớp lớp xích lô máy chở các binh sĩ Mỹ to đùng và các binh sĩ Việt
Nam Cộng Hòa rám nắng tất cả đều nhễ nhại mồ hôi trực chỉ đến khu “Chú Ía”;
(e) Hàng rào ngôn ngữ đã được vượt qua một cách dễ dàng bằng ngôn ngữ cử chỉ, theo đó chỉ cần nắm bàn tay trái lại để có hình tượng một chiếc ống rỗng, còn bàn tay phải xòe ra vỗ chụp lên miệng chiếc ống rỗng hình tượng bên tay trái ấy, thi các quân nhân Đại Hàn dễ dàng ra dấu rũ rê quân nhân Mỹ còn phu xích lô Việt dễ dàng hiểu ngay rồi cắm đầu đạp xe hay rồ máy xe nhắm khu “Chú Ía” mà thẳng tiến, vì cử chỉ đó mang ý nghĩa “đi lắp đầy lổ hổng”; và
(f) Không bất kỳ “đĩ” nào dám vác mặt
kênh kiệu dù ở địa phương nơi cư trú hay địa phương nơi hành nghề, và dù có
kiếm được rất nhiều tiền hay không, và đây là liêm sĩ cần có và đã có của “đĩ”
thời Việt Nam Cộng Hòa.
Khóa Miệng
Bài
Trên
đây là những sử liệu về Việt Nam Cộng Hòa, cho thấy sức mạnh của ngôn ngữ trong
đấu tranh chính trị của các bên đối đầu trong các thời kỳ cũng như trong giáo
dục.
Một
chuyện nhỏ: tính miệt thị của từ “đĩ” đã giúp các “đĩ” của Việt Nam Cộng Hòa không
làm băng hoại xã hội Việt Nam Cộng Hòa vì “đĩ” không trở thành “gương sáng kiếm
tiền” cho các bé gái trong xã hội. Xã hội chỉ hư hỏng suy đồi khi đối mặt với
tình trạng phụ nữ kiêu hãnh kênh kiệu với sự giàu có bản thân kiếm được từ tiền
bán dâm được truyền thông chính thống không những ca tụng mà còn chế biến từ
ngữ “gái bán hoa” nhằm thi vị mỹ miều hóa “đĩ” với sự hô hào ủng hộ khoái trá
của một hai thằng nghị sĩ ngu đần dường như muốn vinh diệu hóa nghề của một nữ
tiền nhân trong dòng họ của chúng. Sự tùy tiện sử dụng những từ ngữ khác để ám
chỉ “đĩ” dứt khoát chỉ làm băng hoại xã hội. Đó là lời phán của Hoàng Hữu
Phước. Mà Hoàng Hữu Phước đã nói gì đã viết gì đã làm gì thì
thỉnh thoảng có sai dấu hỏi dấu ngã hoặc sai do đánh máy tức lỗi
typographical errors mà thôi.
Rốt
cuộc thì “Việt Nam Cộng Hòa” và “đĩ thời Việt Nam Cộng Hòa” thuộc lịch sử Việt
Nam mà Hoàng Hữu Phước là chứng nhân nghiêm khắc và nhà sử nghiên nghiêm túc
vậy.
Hoàng
Hữu Phước, Thạc Sĩ Kinh Doanh Quốc Tế,
Nghị Sĩ Khóa XIII, Nhà Nghiên Cứu Thế Giới Sử, Nhà Việt Nam Cộng Hòa Học, Nhà
Tư Tưởng Cộng Sản Dân Tộc Thiên Khổng
Vào
những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước – tức Thế Kỷ XX – khi thế giới chưa
ai nghe nói gì về chữ “internet” hay
“world wide web” thậm chí cũng chưa
biết là sẽ có thời điểm sẽ lòi nhú ra một cái đầy mê muội gọi là bốn-chấm-không dù trước đó không hề có một/hai/ba-chấm-không quái gì cả; còn Việt
Nam chưa có các mục quảng cáo bất kỳ trên báo chí hay truyền hình, chưa người
dân nào dám hó hé mở mồm hát hoặc công khai nghe “nhạc bolero”, thậm chí khách
sạn chưa cho phép hai người khác phái ở chung phòng nếu họ không “xuất trình
giấy đăng ký kết hôn”, và xã hội Việt Nam chưa có “luật sư” do chưa có đại học
nào có Khoa Luật nên chỉ mới có “luật gia” mà tiêu chuẩn để làm “luật gia” và
“thẩm phán” là có “đạo đức cách mạng” chứ không phải có văn bằng tốt nghiệp
khoa Luật, thì tôi đã tận dụng cơ hội khi dạy môn Văn Minh Anh BritishCivilization (tức cái mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gọi là Đất Nước HọcAnh) thấy có xuất hiện chữ MP
trong giáo trình là tự động tự tung tự
tác tự quyết định ứng khẩu thuyết trình luôn một mạch về MP, MOC
và NAR, nên có thể nói chắc chắn một-tỷ-phần-trăm rằng sinh viên của
Hoàng Hữu Phước là những người Việt Nam đầu tiên được nghe nói đến đầy đủ và
được nghe giải thích tường tận bằng tiếng Anh về sự khác nhau về tổ chức và tên
gọi giữa các cơ quan lập pháp – tức “quốc hội” – của ba siêu
cường chính trị tiêu biểu mẫu mực hoàn toàn khác nhau trấn giữ thế ba chân
vạc khác nhau gồm Anh ở Châu Âu, Hoa Kỳ ở Châu Mỹ, và Việt Nam ở phần còn lại
của thế giới, mà trong đó cơ cấu của Mỹ và Việt Nam là độc nhất vô nhị trên thế
gian này không hề có thể chế chính trị nào tương tự cả.
Với
tư thế tiên phong như thế trên mặt trận tri thức lập pháp, tác giả bài viết này
là “nhà làm luật” duy nhất có trình độ “làm luật” ở Việt Nam, do đó, có đầy đủ
tư cách, trình độ, tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm, để cho ra các nhận xét
khoa học, nghiêm túc, chính xác, và đầy đủ về hoạt động “cho ra kết luận điều
tra” của Cơ Quan Điều Tra của Việt Nam.
A) 5 Điệu
Múa
Từ
xa lắc xa lơ, chữ Hán-Việt của “múa” là “vũ”.
Gần
đây thôi, Thạc sĩ Hoàng Hữu Phước có sử dụng trong một bài viết một câu thơ
Hán-Việt “Phượng Loan Minh Vũ Nghê Thường
Khúc” với chữ “vũ” nghĩa là “múa”. Cần nói thêm rằng câu thơ Hán-Việt trên
là của Cử nhân Anh Văn Đàm Dược Côn, giáo sư trung họcNguyễn Bá Tòng Sài Gòn (đường Bùi Chu, Sài Gòn – nay là trường Bùi
Thị Xuân đường Bùi Thị Xuân, Quận 1 Thành Phố Hồ Chí Minh), mà giáo sư ngâm
trổ tài thi phú với Hoàng Hữu Phước là người học trò mà ông thấu thị vài chục năm sau sẽ “công
khai” đứng đầu thiên hạ ở nước Nam này cả về thơ văn tiếng Anh và thi ca tiếng Hán-Việt.
(Câu thơ đầy đủ của Thầy Đàm Dược Côn là:
“Phượng Loan minh vũ Nghê Thường
khúc, Hoan lạc nhân gian đệ nhất chi”). Cần nói thêm rằng tôi chỉ thích hai
vũ điệu “Tây” của hai anh môi hở răng
lạnh là “Twist” của Mỹ do đặc
tính độc lập sinh động dữ dội của nó
và nhạc của nó, và Cha-cha-chá của
Cuba do đặc tính độc lập sinh động dứt
khoát của nó và nhạc của nó mà thôi. Còn mấy thứ khiêu vũ linh tinh nhũn xèo lệ thuộc như Waltz, Rumba,
Mambo, Lambada, Merengue, Salsa, Cumbia, Tango, v.v. của thế giới, hay như khiêu
khích nhảy múa diễn cướp ngang nhiên phạm
pháp của Việt Nam mà tôi gọi là vũ điệu Rob-in-Hood
(tức bọn cướp đội mũ trùm láu cá nhập
nhằng đánh lận con đen với Robin Hood)
thì tôi xem như thứ chả hay ho gì sất.
Vài năm trở lại đây có nhiều vụ múa may diễn cướp ngang nhiên phạm pháp giữa ban ngày thanh thiên bạch nhật ở Việt Nam mà trong những thằng những con thuộc “cõi trên” múa may phạm pháp giữa ban ngày đó có nhiều đứa họ Vũ hoặc tên Vũ và, tất nhiên, cùng những tên tương cận với đám phạm pháp này dù trong sinh vật học thì chúng thuộc những chủng loài khác nhau như giáp xác, bò sát, lưỡng cư, sâu bọ, tôm càng đỏ, ốc bươu vàng, bửa củi, hóa thạch, v.v., chứ không thuộc họ Vũ hoặc có tên Vũ gì cả.
Mới
nhất là vụ của một tên vũ công Rob-in-Hood
múa may phạm pháp giữa ban ngày có tên dịch ra tiếng Hán-Việt là Nhật Vũ.
Nếu
đọc nội dung kết luận điều tra của
cái gọi là “cơ quan điều tra” (như đăng trên “Tuổi Trẻ Online”) thì chỉ với mỗi vụ Nhật Vũ thôi thì “nhà làm
luật Khóa XIII” Hoàng Hữu Phước đã nhận thấy kết luận ấy mặc trang phục
xuyên thấu trên thảm đỏ để lòi nhú ra những 5 vũ khúc múa may loạn xạ gồm:
1–
Chiếm đoạt tài sản Nhà Nước đương nhiên là chiếm đoạt tài sản của quốc gia dân
tộc, nhưng chẳng bao giờ Nhà Nước dại dột công khai tuyên bố khẳng định tiền
của Nhà Nước chính là tiền của quốc gia dân tộc vì theo lẽ đạo đức thường tình
thì kẻ nào dám động đến tiền quốc gia dân
tộc dứt khoát phải đối mặt với mỗi án tử hình mà không có kèm theo bất kỳ
điều kiện kỳ quái nào gọi là “khắc phục hậu quả” để được giảm nhẹ hình phạt cả.
2–
Các nhân vật quyền bính sử dụng quyền lực để thu lợi bất chính từ nhận hối lộ và lại quả nhưng Việt Nam
không bao giờ coi hối lộ cùng nhậnhối
lộ và lại quả thuộc chung phạm
trù với tham nhũng để xử tội nghiêm
khắc cùng thang bậc y như tham nhũng.
3–
Đem một phần tiền tham nhũng hoặc
tiền múa cướpRob-in-Hood đi bố thí chùa
cho “Chùa” – không được cho “Nhà Thờ” – và cung cấp một phần tiền tham nhũng/ múa cướpRob-in-Hood cho
các phong trào xã hội của Nhà Nước sẽ được Cơ Quan Điều Tra xem là vô cùng
thánh thiện y như Robin Hood rất xứng
đáng được tính đến như những tình tiết
giảm nhẹ nếu chẳng may bị phát hiện tham
nhũng hoặc múa cướpRob-in-Hood.
4–
“Có công với cách mạng” đồng nghĩa với việc cả dòng họ có đặc quyền phạm pháp phạm
tội trong ít nhất là một thiên niên kỷ, tức 1.000 năm.
5– Việt Nam quý trọng nhất thế giới nên chỉ cần nộp 500 triệu đồng Việt Nam khi chẳng may bị phát hiện tham nhũng (tức đồng nghĩa với hối lộ/nhận hối lộ/lại quả) 3 triệu USD sẽ được tự động xem như đã khắc phục hậu quả xong vì 500 triệu đồng có đến 9 chữ số so với 3 triệu USD chỉ có 7 chữ số, và vì Việt Nam chiến thắng đế quốc Mỹ nên Việt Nam là đại siêu cường quốc và đồng tiền Việt Nam là siêu tệ tức “tệ rất siêu” so với đồng tiền Mỹ chỉ là cái thứ tệ tệ tức “tệ rất tệ”.
5
vũ điệu Khinh Thường Khúc trên không
những được ưa chuộng bởi tất cả các kẻ tham nhũng/hối lộ/nhận hối lộ/lại quả mà
còn bởi các cơ quan điều tra tố tụng Việt Nam vì
(a) Bên đại quan thì hoặc hạ cánh an
toàn do không bao giờ bị bại lộ, hoặc nếu “hy sinh đời Bố/cũng cố đời con” lấy thì
vô thiên lủng trả lại thì chút ít thì cũng chỉ “hy sinh vì đại nghĩa” nín thinh
chịu có vài năm sống đế vương trong tù ngục để dòng họ sống đế vương ngoài tù
ngục cũng như để “nhóm quyền lực” không bị vạ lây, còn
(b) Bên Điều Tra thì tận dụng “luật pháp nhũn xèo” ra tay cứu gỡ tội trạng tội danh cho các đại quan, với sự nhận thức rất rõ ràng rằng ta đây (i) sẽ được bề trên cất nhắc thậm chí được Mặt Trận Tổ Quốc hoan hỷ cho vào Quốc Hội; (ii) sẽ được bề trên cứu nguy tương tự nghĩa là nếu bản thân cũng táy máy ngân khố y theo sách của đại quan mà xui xẻo bị bại lộ sớm thì bề trên sẽ trả ơn bằng cách cho hưởng y như nêu ở a ở ngay trên đầu đoạn này; và (iii) bất khả xâm phạm vì thân nhân có “công với cách mạng”, nhân thân có nhiều “đóng góp” cho sự phát triển của ngành dù chỉ phát triển theo chiều ngang tức bung tòe loe tanh banh, và bản thân có đem tiền ăn cướp tàn nhẫn trên xương máu và tương lai của dân tộc để thành tâm đãnh lễ dâng cúng cho chùa cầu an cho bá tánh và tặng cho nạn nhân chiến tranh/thiên tai để chứng minh Nhà Phật thật sự có luật nhân-quả lãng xẹt.
B) 6 Vấn Nạn
Luật Pháp Việt Nam
Nguồn cơn tạo nên các sự múa may phạm pháp giữa ban ngàyRob-in-Hood như nêu trên sẽ dễ dàng khiến người dân có ngay mối hoài nghi rằng phải chăng đó là do mưu đồ của ai đó trong số các lãnh đạo của các thời kỳ muốn vừa
(b) tạo khuôn luật pháp cung cấp sự an toàn tuyệt đối cho bản thân/gia đình/dòng họ, tức một kiểu tân-gia-đình-trịphi-gia-đình-trị (non-nepotistic neo-nepotism), tức không có việc truyền ngôi kế tập cho cá nhân một dòng họ nhưng có sự phát ban cho một tập thể Đảng rất nhiều cá nhân Đảng viên những tấm “miễn tử kim bài” (tức tha khỏi tội tử) núp ẩn trong các mật lệ của Đảng và công điều của tất cả các bộ luật có-liên-quan của quốc gia để bản thân cả nhóm đông người của họ/tất cả các gia đình của họ/tất cả các dòng họ của họ được “bất khả xâm đại phạm” (tức tội nếu chẳng may bị bại lộ sẽ không chịu án nặng); và vừa
(c) hình thành nhóm tinh hoa chính trị elite yên tâm hành sự vì được bảo vệ
tuyệt đối bởi luật pháp nhũn xèođể hân hoan trung
thành đối tuyệt.
Những
chiêu trò luật pháp trong lập pháp ở Việt Nam không bao giờ là khả dĩ khả thi
nếu như đất nước đã không gặp phải những vấn nạn sau đây.
1- Vấn Nạn Nhà Làm Luật Tay Mơ
Khi giảng dạy về hoạt động và tên gọi các Quốc Hội khác nhau của các thế lực chính trị khác nhau như Quốc Hội Mỹ Congress, Quốc Hội Anh Parliament, và Quốc Hội Việt Nam NationalAssembly, chỉ mới 6 năm sau Ngày Giải Phóng 30-4-1975, tôi đã lưu ý sinh viên của tôi rằng có một điều luôn giống nhau ở cả ba thế lực chính trị này: tất cả các nghị sĩ đều đương nhiên được gọi là những nhà chính trị và là những law-makers tức “nhà làm luật”.
“Nhà
làm luật” law-maker tức nghị sĩ quốc
hội dù Việt Nam gọi là RNA Representative
of National Assembly, Mỹ gọi là MOC tức Member
ofCongress, còn Anh Quốc gọi là MP
tức MemberofParliament, v.v.
“Nhà làm luật” hoàn toàn không dính dáng
gì đến nghề nghiệp “luật sư”.
Trong
một bài viết trước đây cũng trên blog này, tôi đã cung cấp số liệu thống kê
những nghị sĩ đã hình thành nên bản Hiến Pháp Hoa Kỳ thuộc các nhóm nghề nghiệp nào, trong đó có một số đông
chủ nô lệ, sĩ quan, thương nhân, cộng
với hai ba “luật sư”, hai ba vị “có học luật nhưng không hành nghề luật”, v.v.
Bác sĩ là người được đào tạo để chăm sóc sức khỏe khách hàng (bịnh nhân), giúp khách hàng vượt qua bịnh tật, bất kể khách hàng là thường dân hay tử tù, miễn được thanh toán chi phí bất kể từ tiền của khách hàng hay của cơ quan bảo hiểm y tế. Bác sĩ không tự tay chế ra ống nghe, ống tiêm, kim tiêm, chai dịch truyền, ống dẫn dịch truyền, kềm nhổ răng, máy chạy thận, máy chụp cắt lớp, v.v. Tương tự, giáo viên không tự mình rặn đẻ ra các định luật toán học, đặt tên cho các hành tinh, lặn xuống đáy biển thám hiểm đo đạc hố sâu nhất ở Thái Bình Dương, cũng như không mày mò đẻ ra tiếng Anh để dạy học môn tiếng Anh, không viết Đại Việt Sử Ký Toàn Thư để dạy môn Sử. Và cũng tương tự, “luật sư” là người được đào tạo để chăm sóc quyền lợi khách hàng (nguyên đơn hay bị đơn), tận dụng các khe hở của luật pháp sẵn có để giúp khách hàng vượt qua tội danh để hoặc trắng án hoặc chịu án nhẹ nhất có thể được, bất kể khách hàng là thường dân hay tội phạm xuyên quốc gia thủng biên giới, miễn được thanh toán công xá bất kể từ tiền của khách hàng hay của cơ quan pháp luật Nhà Nước, chứ không bao giờ có chuyện luật sư là người soạn/viết/làm luật.
Như vậy, nhà làm luật – theo nội hàm phổ biến đương nhiên ở các nước văn minh – đơn giản là người (a) quan tâm sâu sắc đến việc “làm chính trị trong môi trường nghị viện” với “làm chính trị” chỉ mang ý nghĩa “chính thức phục vụ quốc gia và quốc dân về mặt lập hiến và lập pháp”; vì quan tâm nên người ấy (b) đầu tư nhiều nhất trong thời gian dài cho tri thức tổng hợp về các hoạt động đa dạng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân và nền chính trị xã hội quốc gia trong tương quan với khu vực/thế giới/tổ chức song phương/tổ chức đa phương, trong đó có các bộ luật các quốc gia và các bộ quy tắc quốc tế thành văn trong xử lý các tranh chấp thương mại hoặc chủ quyền, rồi (c) sử dụng sự hiểu biết ấy vào công việc chính thức của mình để tích lũy kinh nghiệm và thu hoạch kết quả cũng như truyền bá/sẻ chia sự hiểu biết cùng tri thức ấy với vai trò tương đương một nhà tư vấn dù tại doanh nghiệp/cơ quan/trường học/lực lượng vũ trang, từ đó (d) tạo dựng tên tuổi được đủ số người dân biết đến để họ trở thành “cử tri” riêng khi bản thân đến thời điểm (e) quyết định dứt khoát từ bỏ công việc chính thức của mình để ứng cử vào nghị viện nước mình hầu theo đuổi bước đường “làm chính trị trong môi trường nghị viện”.
Theo 5 chuẩn mực trên, Quốc Hội Việt Nam chỉ có mỗi nghị sĩ Khóa XIII
Hoàng Hữu Phước là “nhà làm luật” đúng nghĩa nhất. Kỳ dư, tuyệt đại đa số đại biểu quốc hội Việt Nam không có chất lượng
cao do bị trì trệ bỡi 5
điểm đặc biệt chung sau:
(a) Không bất kỳ ai hoặc từ nhỏ hoặc từ
lúc bước chân vào đời cho một cuộc sinh nhai đã quan tâm đến việc sẽ “làm chính trị trong môi trường nghị viện”
với “làm chính trị” chỉ mang ý nghĩa “chính thức phục vụ quốc gia và quốc dân
về mặt lập hiến và lập pháp”; vì không từng quan tâm nên
(b) Không bất kỳ ai đầu tư nhiều nhất trong thời gian dài và liên tục cho tri thức tổng hợp về các hoạt động đa dạng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân và nền chính trị xã hội quốc gia trong tương quan với khu vực/thế giới/tổ chức song phương/tổ chức đa phương, trong dó các bộ luật các quốc gia và các bộ quy tắc quốc tế thành văn; chẳng qua vì
(c) Họ tuyệt đại đa số là Đảng Viên nên
không bất kỳ ai có quyền tự ra ứng cử nghị viện mà phải tùy vào sự phân công
của Đảng trong từng nhiệm kỳ Quốc Hội; và chính vì sự lệ thuộc vào việc “Đảng
đặt đâu thì ngồi đó” này mà
(d) Không bất kỳ ai trong số họ tạo dựng được tên tuổi bất kỳ về “làm chính trị” để tạo cho mình có được đủ số người dân biết đến để những người dân này trở thành “cử tri ruột” cả, mà người dân chỉ biết khi đọc giới thiệu đầy hào quang trong danh sách ứng cử viên của mỗi kỳ bầu cử do Ủy Ban Bầu Cử phối hợp với Mặt Trận Tổ Quốc biên soạn; chưa kể
(e) Không bất kỳ ai phải từ bỏ công việc chính thức của mình trừ
phi được Đảng phân công làm Trưởng/Phó Đoàn Đại Biểu Quốc Hội địa phương hoặc
làm “đại biểu chuyên trách” các ủy ban Quốc Hội trung ương.
Chính vì hệ thống quy trình không chuyên nghiệp như vậy mà các “nhà làm luật” Việt Nam có 4 công việc chính là (i) lắng nghe trình bày các dự án luật do các Bộ có liên quan soạn sẵn, (ii) đọc phát biểu ý kiến tại nghị trường – mà theo bài bản văn bản quy trình của Bộ Tài Chính áp dụng cho Quốc Hội thì bài phát biểu đó là do sử dụng tiền Bộ Tài Chính để thuê “chuyên gia” viết giúp – hoặc tại tổ, (iii) nhấn nút thông qua dự án luật, và (iv) tiếp xúc cử tri để lắng nghe hoặc ý kiến cử tri để chuyển ra Thường Vụ Quốc Hội hoặc những chưởi bới của cử tri do đã có quá nhiều nghị sĩ lắng nghe qua quá nhiều Khóa Quốc Hội mà chả có giải quyết hay hướng dẫn xử lý gì cả.
Và cũng vì rất nhiều năm thiếu đầu tư chất xám cho “làm chính trị nghị viện”, không kinh nghiệm làm việc chuyên môn, chẳng nghiên cứu luật quốc tế có liên quan đến công việc chuyên môn ấy, nên (a) các bộ luật được các “nhà làm luật từ trên trời rơi xuống” này thông qua có tính khả dụng rất ngắn hoặc chưa đến thời hiệu áp dụng đã phải tu chỉnh; còn (b) các nghị sĩ có những người như trẻ thơ như khi nói về một luật quan trọng như “Luật Biểu Tình” chẳng hạn thì phát biểu oe oe giữa nghị trường rằng “thiên hạ biểu tình rất lịch sự thì Việt Nam cũng biểu tình được như vậy!”; (c) có nghị sĩ Chủ Tịch Công Đoàn Lao Động Việt Nam tự nhiên giựt mình sủa ăng ẳng giữa nghị trường về đại công của những “anh hùng Việt Nam Cộng Hòa” trong cái hoang đường gọi là “Hải Chiến Hoàng Sa”; trong khi (d) nghị sĩ khác thì do không hềđọc luật nên son phấn đậm đà đẫy đà như lạc đà lỡ đà đi lạc chui vào lỗ kim nhỏ xíu xìu xiu vô ngồi chình ình trong lòng Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam dưới thời một tên chủ tịch bất tài vô dụng để làm Phó Chủ Tịch Mặt Trận cho nó rồi cùng chồng và các con của ả lẻn nhập quốc tịch nước khác chờ ngày bôn tẩu; thậm chí (e) có nghị sĩ nắm quyền bính cực cao ở Thành Phố Hồ Chí Minh chỉ biết vắt óc ngày quên ngủ đêm quên ăn để cuối cùng hý ha hý hửng hí vang trời đất khi tìm ra được phương pháp bịt miệng Nghị Sĩ Hoàng Hữu Phước bằng cách cà õng cà ẹo thị uy quát tháo Nghị Sĩ Huỳnh Thành Lập; ôi thôi đủ thứ bi hài v.v. và v.v. tại Đoàn Đại Biểu Quốc Hội Thành Phố Hồ Chí Minh vĩ đại.
Chính
toàn là dân làm luật tay mơ nên mới đẻ ra những bộ luật nhũn xèo, tạo điều kiện
cho các tay mơ làm chuyện chuyên nghiệp chuyên lừa Đảng, lừa Chính Phủ, lừa
dân.
Chính vì có những bộ luật nhũn xèo mà Cơ
Quan Điều Tra mới có cơ sở để kiến nghị áp dụng luật nhũn xèo ấy vào các trường
hợp đại quan bị bại lộ đang làm trò cười cho thể chế quốc gia, thể thống quốc
thể, và thể diện quốc dân trên trường quốc tế.
Thủa mới xuất hiện cái gọi là điện thoại di động mobile phone (mà nếu áp dụng công thức chế tạo từ mới hiện nay thì phải gọi thứ phone đó là điện thoại ngu đần do chỉ có phone hiện nay mới có tên “điện thoại thông minh”), ngòai đường phố Thành Phố Hồ Chí Minh xuất hiện lắm kẻ quê mùa từ thằng thương nhân mặt mũi Đài Loan hay Singapore đi bộ ngoài đường tay cầm cục gạch tổ bố (mobile phone) để khoe khoang dù quàng cặp da sang trọng toòn teeng trên vai cho đến mấy con nhóc chạy xe máy một tay nắm ghi-đông xe rồ máy một tay cầm cục gạch bố tổ (mobile phone) cũng để khoe khoang dù máng giỏ xách toòn teeng ở ghi-đông. Hoàng Hữu Phước giám đốc FOSCO là bậc trưởng thượng quý tộc sang trọng nên hoặc đút luôn cục gạch tổ bố (mobile phone) vào túi quần hoặc nếu áy náy không muốn gây sự chú ý nơi phụ nữ trước cái sự cồm cộm khiêu khích lộ lồ ấy thì nhét luôn cục gạch vào chiếc cặp da Samsonite mà chị tôi bên Mỹ – người chị bị đuổi khỏi Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh vì dám mặc áo dài trắng tiểu tư sản đến trình diện “nhà trí thức cách mạng” đại diện Ủy Ban Quân Quản đến tiếp quản Đại Học Sư Phạm ngày 02-5-1975 như đã kể ở bài trước – gởi tặng.
Rồi
đất nước lại xuất hiện lần lượt trước sau hai đám quê mùa hiện đại sau
30-4-1975 gồm:
a) Đám quê mùa thứ nhất là đám trong chiến tranh đi học đại học ở các nước xã hội chủ nghĩa, chưa từng ngày nào ăn cơm nắm dưới hầm trú bom cùng với nhân dân, để rồi sau giải phóng chiếm luôn các suất du học tư bổn thấy cái gì của tư bổn cũng tuyệt đẹp hơn các nước anh em xã hội chủ nghĩa và hơn đất nước điêu tàn ở quê nhà, từ đó mơ màng đến các điều vĩ đại như bãi bỏ án tử hình, bãi bỏ sử dụng nhục hình, bãi bỏ lao động khổ sai, đề cao giáo dục giới tính, đòi hỏi luật hóa đĩ, v.v. và v.v. Tiêu biểu của đám này là bọn dở hơi ở lứa tuổi 50-70 hiện diện trong vị trí lãnh đạo/nguyên lãnh đạo ngay cả tại cơ quan lập pháp và truyền thông chính thống.
b) Đám quê mùa thứ hai là đám sinh ra sau 30-4-1975 có cơ hội kép từ (i) tổng hợp công gồm các siêu dự án ồ ạt “đào tạo nhơn tài” là con đỏ của các tỉnh thành nhớn từ tiền thuế của dân đen và các chính sách của Đảng và Nhà Nước trong tuyệt đối sùng bái bằng cấp từ chương; và từ (ii) tổng hợp tư gồm điều kiện làm giàu thông thoáng, việc du học là chuyện tài chính riêng của cá nhân và gia đình, và các trường đại học trên toàn thế giới tư bổn đồng loạt hạ cấp nghĩa là chấp nhận luôn chuyện du học thạc sĩ không cần giỏi tiếng Anh trước và không cần đã kinh qua quá trình làm việc thực thụ sau cử nhân. Tiêu biểu của đám này là bọn dở hơi ở lứa tuổi như Lê Công Định hay Ngô Di Lân trở về sau này, đứa nào cũng ngợi ca tự do – dân chủ nhơn quyền, tự do ngôn luận, tự do biểu đạt, tự do biểu tình, xã hôi dân sự, mô hình giáo dục đào tạo của tư bổn, và đặc biệt là “làm chính trị để làm loạn” chống chính phủ, v.v. và v.v.
Chính bởi cái gốc của bọn quê mùa này là hoặc mục ruỗng trống phoọc do mối mọt hoặc là rau muống vừa rỗng ruột vừa có rễ chả bám vào đâu cho ra hồn ra vía nên dù có bằng cấp tư bổn, những thứ chúng tiếp thu được lại là thứ nửa vời, thảo nào với số lượng đông lúc nhúc các “nhơn tài” thạc sĩ/tiến sĩ tư bổn như thế mà đất nước Việt Nam này cứ mãi lung tung linh tinh lăn tăn lộn tùng phèo như hiện nay (một bộ phận không nhỏ người dân ăn bã tư bổn vẫn lảm nhảm đòi thay đổi chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa) chứ không thành cường quốc như Nhựt Bổn (toàn dân ăn đồ sống sít nội địa vẫn dứt khoát duy trì chế độ quân chủ thế tập cha truyền con nối đến muôn đời).
Với
những thứ chúng tiếp thu được chỉ là thứ nửa vời với bằng cấp nửa vời, chúng ta
có thể thấy 5 điểm rõ nét sau nơi
chúng:
(a) không bất kỳ đứa nào sử dụng được ngoại ngữ ở cấp độ hàn lâm và ở đầy đủ các dạng hùng biện viết và hùng biện nói để làm gương tham khảo ngưỡng mộ cho triệu triệu người dân Việt đã và đang học tiếng Anh từ 30-4-1975 đến nay gần nửa thế kỷ và xuyên qua hai thế kỷ;
(b) bọn rao giảng về “tính nhân đạo” trong bỏ bớt án tử hình thậm chí bỏ hẳn án tử hình, đã ngu si không biết rằng (i) Châu Âu nhanh tay lẹ chân bãi bỏ án tử hình chỉ vì trong Đệ Nhị Thế Chiến Châu Âu hèn hạ toàn là bọn phản quốc cúng dâng đất nước của chúng cho Adolf Hitler với sự hân hoan ủng hộ của Vatican giết biết bao dân quân du kích cách mạng và bao triệu dân Do Thái nên án tử hình đe dọa tất cả bọn chính khách và đám tăng lữ ấy, và rằng (ii) cái nước Mỹ đã cấp văn bằng cho chúng sẽ vĩnh viễn không bao giờ bỏ án tử hình;
(c) bọn rao giảng về “nhục hình” và bao cái linh tinh khác trong đó có “biểu tình” thì cái nước Mỹ cấp văn bằng cho chúng vẫn đang dùng nhục hình trong tra tấn (vì cái đạo lý duy nhất và cao nhất là phải tra tấn thật tàn bạo các nghi can để may ra moi được lời khai của chúng chẳng hạn về vị trí chúng đã đặt bom khủng bố có nguy cơ sắp cướp đi sinh mạng nhiều người thậm chí nhiều trăm ngàn người nếu vị trí đặt bom phá hoại là nhà máy điện nguyên tử hoặc thủy điện), và cũng đang cho phép “biểu tình” song hành với quy định phải chấp hành yêu cầu giải tán ngay của nhân viên công lực mà sự bất tuân sẽ dẫn đến hậu quả tất yếu hoàn toàn hợp pháp là bị đánh đập, bị xử tù giam, hoặc trở thành mục tiêu của các cảnh sát chống bạo động bắn tỉa từ các nóc nhà;
(d) cái nước Mỹ cấp văn bằng cho chúng
không bao giờ “luật hóa đĩ”; và
(e) còn biết bao sự thật khác mà mọi
người dân không là thành viên bọn quê mùa trên đều biết rõ và đầy đủ.
3- Vấn Nạn “Có Công Với Cách Mạng”
Tổ Quốc Ghi Công là một cụm từ cao vời trên cả đạo lý đạo nghĩa.
Tổ Quốc Ghi Công cao vời trên cả đạo lý đạo nghĩa vì chỉ có Tổ Quốc Ghi Công mới khẳng định đạo lý
đạo nghĩa ấy bao gồm hai đại nghĩa của sự hy sinh cái quý trọng nhất của đời
người là sinh mạng bản thân cho nước cho dân hiện nay, và sự hy sinh cái quý
trọng nhất của đời người là sinh mạng bản thân cho sự tồn vong của đất nước và
dân tộc mai sau.
Bản thân của cụm từ Tổ Quốc Ghi Công là đạo lý đạo nghĩa.
Bản thân của cụm từ đạo lý đạo nghĩa là phải bao hàm việc thực hiện Tổ Quốc Ghi Công đối với những công dân đã hy sinh sinh mạng bản thân cho sự tồn vong của đất nước và dân tộc ngày nay và mai sau.
Có
công bắt buộc phải được thưởng. Có tội bắt buộc phải bị trừng. Đây là
nguyên tắc bất biến bất di bất dịch không những của phạm trù đạo lý đạo nghĩa
mà còn của tất cả các tôn giáo.
Đối với những anh hùng liệt sĩ vị quốc vong thân, cái đạo lý đạo nghĩa của đất nước và người dân phải và luôn là
(a) đời đời vinh danh;
(b) đời đời không dứt khói hương tưởng
niệm;
(c) đối với những liệt sĩ vô danh và những liệt sĩ có danh tính nhưng không còn thân nhân, chế độ chính trị phải vì nước vì dân vì sự cường thịnh của quốc gia và vì danh dự của dân tộc để xứng đáng với anh linh của những liệt sĩ này; và
(d) đối với những liệt sĩ có danh tính còn thân nhân, chế độ chính trị phải có
đầy đủ các cơ chế chính sách để thay mặt các liệt sĩ này chăm sóc cha mẹ ông bà
của họ về đời sống và y tế, dành sự ưu
tiên hợp lý về học tập/đời sống/y tế/việc làm cho vợ/chồng/con của các liệt
sĩ.
Ưu
tiên hợp lý là trên 4 nguyên tắc:
(a) Thân nhân thuộc diện có khó khăn
thực sự về kinh tế/đời sống. Không thể chấp nhận việc “cào bằng” cung cấp chế
độ như nhau cho thân nhân nghèo khổ của liệt sĩ này và thân nhân giàu sang của
liệt sĩ khác.
(b) Nhu cầu học tập của thân nhân phải
dựa trên cơ sở năng lực học tập của thân nhân đó. Không thể chấp nhận việc cung
cấp cơ hội “đào tạo nhân tài” cho thân nhân liệt sĩ bất kể thân nhân ấy có năng
lực học tập hạn chế.
(c) Nhu cầu làm việc của thân nhân phải
dựa trên cơ sở năng lực làm việc, kinh nghiệm làm việc của thân nhân đó với
điều kiện có nhu cầu tuyển dụng trên thực tế, đáp ứng yêu cầu thực tế của nơi
tuyển dụng. Không thể chấp nhận việc cung cấp cơ hội làm việc cho thân nhân
liệt sĩ bất kể thân nhân ấy không có năng lực làm việc, không có kinh nghiệm
làm việc, không theo quy trình xét tuyển của đơn vị tuyển dụng, đã vậy còn đưa
vào vị trí quản lý.
(d) Phải chấm dứt sử dụng cụm từ “có công với cách mạng” vì đã và đang có sự nhập nhằng đánh lận con đen giữa “gia đình liệt sĩ” với “gia đình có công với cách mạng”, vì rằng cả đất nước và dân tộc chỉ có đạo lý đạo nghĩa phải gìn đối với liệt sĩ (vô danh, có danh không thân nhân, và có danh còn thân nhân) mà thôi. Còn đối với “gia đình có công với cách mạng”, bản thân cụm từ không mặc nhiên mang nội hàm có sự hy sinh tính mạng để trở thành liệt sĩ, bản thân cụm từ mang nghĩa rất rộng bao gồm cả “công” nuôi giấu cán bộ/“công” cất giấu vũ khí/“công” cung cấp tài chính trong hoạt động kinh tài/“công” hoạt động nội tuyến/nội gián/“công” ám sát quan chức Mỹ/Việt Nam Cộng Hòa, v.v. Như vậy, trên nguyên tắc “Có công bắt buộc phải được thưởng” thì những người “có công với cách mạng” tức “có công với Đảng” thì Đảng có quyền tưởng thưởng bằng các ưu ái đặc quyền/chức cao/quyền trọng như liên tục từ 30-4-1975 cho đến tận ngày nay. Song, Đảng không có quyền buộc nhân dân phải tự động hiểu “có công với cách mạng” đồng nghĩa với “tổ quốc ghi công”, nhất là khi cái “có công với cách mạng” đó lại mặc định được kéo dài miên viễn, được kế tập truyền lưu, được trở thành “miễn tử kim bài” tức giấy phép tham nhũng/ăn hối lộ/nhận lại quả/phá tanh banh cơ nghiệp cơ quan, trong khi gia đình liệt sĩ có danh có thân nhân thì nhiều người sống trong cảnh nghèo với trợ cấp ít oi, gia đình liệt sĩ vô danh có thân nhân sống trong cảnh nghèo không trợ cấp vì không xác định được danh tính liệt sĩ, và hương hồn các liệt sĩ vô danh không còn thân nhân phải chứng kiến cảnh gia đình “có công với cách mạng” hưởng các ưu đãi ưu ái ưu tiên thậm chí có quyền làm nghèo đi đất nước và làm nhục cái chế độ mà họ đã cùng bao liệt sĩ vô danh khác hy sinh mạng sống để giữ gìn phụng sự.
Chưa kể, Đảng và Nhà Nước đã tập trung cho duy chỉ một vế của đạo lý đạo nghĩa: Có Công Bắt Buộc Phải Được Tưởng Thưởng Hậu Hỉ Không Được Chậm Trể; còn vế còn lại của Có Tội Bắt Buộc Phải Bị Trừng Trị Nghiêm Khắc Không Được Dung Thứ thì Đảng đã cho phép biến dạng biến hình biến thái thành “có nhân thân tốt, thuộc gia đình có công với cách mạng, có nhiều đóng góp cho cách mạng, và có làm công quả cúng kiến tài trơ cho tôn giáo chính và duy nhất của Đảng (Đạo Phật)” để xử phạt nhẹ hơn – nếu đại sự làm nghèo đất nước của chúng bị bại lộ.
Do vậy, ngay từ đầu thì cụm từ “có công với cách mạng” đã được khôn khéo đề ra nhằm vinh danh gia đình những cán bộ đảng viên không có thân nhân nào làm anh hùng liệt sĩ để những gia đình này được hưởng mọi đặc quyền đặc lợi, mà đương nhiên đa số các cán bộ đảng viên ấy không có thân nhân nào là anh hùng liệt sĩ.
Về phương diện tu từ, “có công với cách mạng” được tự động đứng chung đối vần thi phú với “có tội với nhân dân” như kiểu phát biểu của cán bộ đảng viên Cộng sản Việt Nam Lê Văn Toan khi nói chuyện với công dân Hoàng Hữu Phước. Tuy nhiên, bản thân “có công với cách mạng” không đồng nghĩa với “có công với đất nước” vì chỉ có “đất nước” mới được đi đôi với “nhân dân”. Và như vậy, “có tội với nhân dân” dứt khoát phải bị trừng trị, còn “có công với đất nước” dứt khoát phải được tôn thờ tôn vinh tôn trọng. Suy ra, “có công với cách mạng” không thuộc phạm trù “dứt khoát phải được tôn thờ tôn vinh tôn trọng” bởi quốc gia dân tộc đến độ quyền lợi thì thượng đẳng, mang yếu tố kế tập, còn sự tận dụng lạm dụng sử dụng danh xưng “có công với cách mạng” lại chỉ nhằm cứu nguy giải cứu cho những trường hợp hèn hạ tởm lợm luôn bị loài người ở thế giới văn minh miệt thị rẻ khinh trừng trị: tham nhũng (bao gồm hối lộ/nhận hối lộ/lại quả/móc ngoặc/tham nhũng trinh tiết) và phản quốc.
“Có công với cách mạng”, do đó, nhất thiết phải (i) được định nghĩa rõ bằng luật pháp và trong pháp luật; (ii) không được giới hạn ở chủng loại vì thời bình vẫn rất cần có những công dân “có công với đất nước” dù không phải đảng viên và dù việc “có công” thuộc các phạm trù đa dạng như bảo vệ chính nghĩa quốc gia, bảo vệ an ninh trật tự quốc gia, bảo vệ danh thắng, bảo vệ tài sản quốc gia, bảo vệ người yếu thế, tố cáo tham nhũng, tố giác tội phạm, ngăn chặn thảm họa, nêu gương sáng đạo đức gia phong thiên Khổng.
Không
phân định rạch ròi về ngữ nghĩa tu từ cũng như không giới hạn ngữ nghĩa của “có
công với cách mạng” và “có công với đất nước”, sẽ mãi mãi không chặn ngăn được
tham nhũng (đồng nghĩa với hối lộ/nhận hối lô/lại quả/ăn lại quả/tham nhũng
trinh tiết) vì sự việc tầy huầy tham nhũng không thể được xem là “có công với
đất nước” nên chỉ có thể núp dưới ô dù tàn che phủ rộng của “có công với cách
mạng” như một nhắc khéo rằng “đó cùng là
đảng viên cộng sản cả thôi mà”.
4- Vấn Nạn “Khắc Phục Hậu Quả”
Trong một bức thư gởi Quốc Hội và Đảng (có đăng trên blog này), tôi có nêu ý kiến rằng để triệt tiêu tham nhũng, chỉ có thể bằng cách áp dụng sự cứng rắn theo đó một người tham nhũng 100 tỷ nếu bị bại lộ phải nộp lại đủ 100 tỷ, phải đóng phạt 100% số tiền tham nhũng tức 100 tỷ, phải đóng thêm 100% số tiền tham nhũng tức 100 tỷ để làm tiền thưởng cho người/những người tố giác tham nhũng, và đóng thêm 100% số tiền tham nhũng tức 100 tỷ để tưởng thưởng cho Cơ Quan Điều Tra. Vị chi: tham nhũng 100 tỷ, phải nộp cho Nhà Nước 400 tỷ và chịu đủ án tù giam theo luật định. Nếu tài sản đứng tên bị đơn không đủ 400 tỷ thì tịch thu tài sản của vợ và các con của bị đơn phát mãi thu về cho đủ 400 tỷ.
Bản thân luật pháp là giáo dục.
Chỉ
có quốc gia nhược tiểu có quyền lực nhũn xèo mới tách bạch luật pháp và giáo
dục thành hai phạm trù riêng biệt để cứ mãi “tuyên truyền giáo dục nhân dân về
luật pháp”.
Hình luật kinh kiếp kinh khủng kinh hoàng của Hoa Kỳ luôn được công dân Mỹ gốc Việt có đầu óc khỏe mạnh và chưa lâm vào cảnh tuyệt lộ cùng đường tuyệt đối tuân thủ. (Xin đón đọc bài viết tiếp theo của Hoàng Hữu Phước chứng minh đám nhà quê du học Mỹ về đã có bằng cấp diễu hề ra sao và tình trạng tâm thần khủng hoảng ra sao khi để tâm trí chúng bị tẩu hỏa nhập ma do vỡ mộng thiên đàng trước luật pháp dữ-dằn-hơn-cộng-sản đến độ khi kẹp nách tấm văn bằng trở về Việt Nam thì quá uất ức hóa rồ thi nhau chống chế độ, chống chính phủ, chống Hoàng Hữu Phước, chỉ vì chế độ tốt hơn Mỹ, chính phủ nhơn đạo hơn Mẽo, còn Hoàng Hữu Phước thì được các bố Huê Kỳ của chúng thường xuyên đàm đạo chính trị chứ chả ma Mỹ nào thèm nói chuyện với chúng do chả thằng nào con nào nách kẹp văn bằng Thạc Sĩ/Tiến Sĩ Mỹ mà nói được tiếng Anh hùng biện hàn lâm.)
5- Vấn Nạn Hình Thức Phi Thực Tế
Thời
gian qua có nhiều lãnh đạo Đảng tại các Bộ, các tổng công ty, các chính quyền địa
phương, các quân binh chủng, vương vòng lao lý, bị xử lý kỷ luật, v.v. Thế
nhưng, có một hình thứ kỹ luật rất tức cười của Đảng là “cách tất cả các chức
vụ trong Đảng và trong chính quyền tron thời kỳ ABC và XYZ từ năm nào đến năm
nào”.
Một Bộ Trưởng Bộ Tài Cán nếu bị xử lý như vậy cũng đâu có sao, vì nếu ông ta có tài cán (chẳng hạn có bằng tiến sĩ kinh tế Mỹ mà!) thì khi một ngân hàng Mỹ mời ông ta làm cố vấn cho chi nhánh ở Việt Nam thì ông ta vẫn có quyền khai trong CV tức “lý lịch khoa học hàn lâm” của ông ta rằng từ năm ABC ông ta đã làm bộ trưởng Bộ Tài Cán và rằng từ năm XYZ ông ta làm bộ trưởng Bộ Còn Nguyên của Việt Nam cũng có sao đâu, vì ngay cả “dân đen” Hoàng Hữu Phước mà các công ty Mỹ còn không bao giờ yêu cầu đi chứng nhận lý lịch/không bao giờ yêu cầu kèm giấy giới thiệu của bất kỳ cơ quan nào của Nhà Nước Việt Nam/không bao giờ yêu cầu nộp bản sao văn bằng mà chỉ hý ha hý hửng xin Hoàng Hữu Phước ký tên ngay vào hợp đồng lao lung, huống hồ là “quan đỏ”. Nói tóm lại, Đảng và truyền thông đại chúng không biết Hoàng Hữu Phước đã là ai, chứ các đại gia Mỹ biết các lãnh đạo Đảng tại các Bộ, các tổng công ty, các chính quyền địa phương, các quân binh chủng, vương vòng lao lý, bị xử lý kỷ luật, v.v., là những ai nên việc cách tất cả các chức vụ ở các thời kỳ trong quá khứ chỉ cho thấy vấn nạn phi thực tế của thứ kỹ luật mà bọn tham nhũng chẳng sợ gì sất. Cái mà chúng sợ là bị tịch thu tài sản và bị tử hình. Chúng tiếp tục thành bầy sâu vì chúng biết “khắc phục hậu quả kiểu Việt” sẽ triệt tiêu nỗi khiếp sợ “tịch thu tài sản”; còn “gia đình có công với cách mạng” (đảng viên nào chả vậy), “nhân thân tốt” (đảng viên nào chả vậy), “có nhiều đóng góp cho ngành” (nên mới được Đảng Bề Trên cất nhắc cho vào ngự trong lu gạo nếp Nhựt tha hồ ăn no nê và để lại đống phân trong đấy), và “có đóng góp thiện nguyện” (lập đại công chứng minh cộng sản Việt Nam chăm chỉ cúng dường Tam Bảo chứ không phải vô thần).
6- Vấn Nạn Bó Tay
Những
vấn đề nêu trên tạo ra vấn nạn thứ sáu này, và đây là quan hệ Nhân Quả Dây Chuyền.
C) 7 Lời
Phán Của Hoàng Hữu Phước
Vấn
nạn “bó tay” nêu trên rất ngắn gọn vì bó tay là bó tay, còn viết lách giải bày
biện luận thêm thế nào nữa được.
Song, do Hoàng Hữu Phước muốn trở thành người “có công với đất nước” trên cơ sở “không có tội với nhân dân” nên cố ra sức cho ra 7 nhận định sau, với hy vọng mong manh rằng có khi do lòng thành thấu đến Trời cao nên ngay cả khi Chùa Ba Vàng không được nhờ cúng giải oan gia trái chủ cho đất nước Việt Nam thì vẫn có khả năng bài này được một đấng nhơn tài ăn học đàng hoàng từ Mỹ về đọc rồi Eureka một tiếng mà tồng ngồng chạy bay đến gặp các lãnh đạo Việt Nam vấn kế định quốc an bang khiến thiên hạ thới bình muôn dân an lạc chỉ cần búng tay một cái là thu hồi Hoàng Sa Hải Đảo chăng.
1- Phản Cách Mạng
Tham nhũng (theo văn hóa văn minh Âu Mỹ thì bao gồm hối lộ/nhận hối lộ/đưa lại quả/ăn lại quả/móc ngoặc/biển thủ/tham nhũng trinh tiết) là hành vi/hành động nhơ bẩn, đê tiện của bọn thất học và mất dạy. Tham nhũng tồn tại cùng với quyền lực con người từ thủa khai thiên lập địa. Cách mạng là đổi mới dứt khoát. Tham nhũng, do đó, là phản cách mạng. Cách mạng không bao giờ bảo vệ tham nhũng. Chỉ có bọn thất học và mất dạy chui vào hàng ngũ những nhà cách mạng mới bảo vệ bọn phản cách mạng. Chỉ có bọn tham nhũng mới bảo vệ bọn tham nhũng.
Bảo vệ bọn tham nhũng, không trừng trị triệt tiêu bọn tham nhũng, chính là phản cách mạng.
2- Bao Che Cùng Phe
Bảo
vệ bọn tham nhũng, không trừng trị triệt tiêu bọn tham nhũng, chính là phản
cách mạng, chống cách mạng, vì bản thân những kẻ mở miệng biện minh cảm thông
với bọn tham nhũng là cùng một giuộc với bọn tham nhũng.
3- Bất Công Xã Hội
Bảo
vệ bọn tham nhũng, không trừng trị triệt tiêu bọn tham nhũng, biện minh cảm
thông cho bọn tham nhũng, chính là hành vi tạo nên bất công xã hội (a) giữa người dân gia giáo thiên Khổng tạo
nên ngân khố quốc gia mà không được hưởng gì với bọn chà đạp đạo lý đạo nghĩa
xé nát tài sản quốc gia sống xa hoa xa xỉ; (b) giữa những anh hùng liệt si và gia đình của họ không thể được họ
phụng dưỡng, với những kẻ ăn theo gia đình “có công với cách mạng” của họ để
đẩy bao va-li chất cứng tiền mặt lấy từ tiền thuế của dân về cho cha mẹ của
chúng mua sắm địa ốc biệt phủ xa hoa và con cháu mở siêu doanh nghiệp tự hào
đẩy Tổng Thống Mỹ Donald Trump xuống chiếu
dưới về tổng tài sản đô-la Mỹ; và (c)
giữa những công dân gia giáo thiên Khổng giáo dục con cái thành những công dân
đoan chính tài năng, với những kẻ ăn theo gia đình “có công với cách mạng” để
không cần tư cách đoan chính và tài năng vẫn chiếm giữ vị trí lãnh đạo để rồi
đàn áp ganh tỵ tài năng vói những công dân đoan chính tài năng con cái của
những công dân duy trì nền nếp gia giáo thiên Khổng để làm chỗ dựa của Đảng.
Bất công xã hội có thể bị xóa bỏ mà không cần thay đổi các đặc quyền mà Đảng trả ơn cho những người có công với Đảng, chỉ cần thực hiện hai điều rằng (i) công-tội phải phân minh, cái gì phải ra cái đó, “công với Đảng” luôn không là gì cả so với “tội với dân”, nên không thể mãi lấy cái hào quang “công với Đảng” để ngụy biện du di cho sự phạm trọng tội với dân cứ như thể Đảng đáng quý trọng hơn dân; và do đó (ii) phần ban thưởng về quyền lợi và quyền lực đã cho ra để đền ơn “công với Đảng” thì không có gì bất công hay chưa đủ để mà tiếp tục bắt nhân dân tiếp tục đền ơn những người “có công với Đảng” bằng cách nai lưng gánh chịu thêm tất cả các hậu quả của sự suy đồi đạo đức của cán bộ lãnh đạo “có công với Đảng” cùng các hệ quả đời sống tiện nghi xã hội bị suy sụp suy vi từ hậu quả của sự phá hoại của các cán bộ lãnh đạo “có công với Đảng” ấy.
4- Phản Giáo Dục
Toàn
bộ những nỗ lực giáo dục tuyên truyền của Đảng và hệ thống chính trị Việt Nam
đều đổ sông đổ biển do những vấn nạn như nêu ra trong toàn bộ bài viết này,
biến tạo nên tư duy rằng những bài giảng về đạo đức cách mạng là những lời gian
trá, vô hiệu, tự tạo hào quang, từ đó hình thành sự phản kháng xã hội hoặc bùng
phát, hoặc ngấm ngầm, hoặc biến thành phản ứng cam chịu thụ động và phó mặc,
mất lòng tin, biến những khoản đầu tư khổng lồ của Nhà Nước vào giáo dục tuyên
truyền trở nên vô hiệu, thành một thứ phản giáo dục, vì càng tuyên truyền giáo
dục càng tạo nên sự suy giảm về nhận thức, suy thoái về đạo đức cách mạng, suy
tàn về lý tưởng cộng sản, và suy sụp nền nếp gia phong từ ngay chính phạm vi tế
bào của xã hội.
5- Phản Đảng
Tất
nhiên, học trò của Hồ Chí Minh không thể là những đại quan của Đảng đang lũ
lượt ào ạt chúc chen trước vành móng ngựa chốn pháp đình đan tâm phá tan ba cột
trụ đạo đức gồm cột trụ đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh, cột trụ đạo đức truyền thống
ái quốc của dân tộc và cột trụ đạo
đức gia phong thiên Khổng của xã hội. Trung Ương Đảng và Bộ Chính Trị phải
chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc đã đặt để những kẻ phản Hồ Chí Minh, phản
truyền thống ái quốc, và phản truyền thống gia giáo vào những vị trí chễm chệ
ngôi cao tham chính và trị quốc. Không chỉ những kẻ phản phúc đó phản Đảng mà
sự yếu kém cẩu thả vô trách nhiệm và ngu xuẩn trong đề bạt cán bộ sai và giám
sát sai cán bộ cùng quản lý sai cán bộ của Trung Ương Đảng và Bộ Chính Trị cũng
là hành vi phản Đảng.
Cách
duy nhất để Trung Ương Đảng và Bộ Chính Trị chuộc tội trước nhân dân là ra lệnh
khẩn cấp cho các cơ quan Đảng chấm dứt tất cả các hành vi như vừa diễn ra: phân
bua chống chế viện dẫn về “nhân thân”, “có công với cách mạng”, “có khắc phục
hậu quả”, “có đau yếu bịnh tật”, “có đóng góp kinh phí cho nạn nhân chất độc da
cam”, “có đóng góp cho chùa”, v.v. và v.v., khi ra sức làm nhẹ tội danh của bọn
tham nhũng đê hèn bẩn thỉu thối tha phản Đảng.
Công dân Lại Thu Trúc, người đóng góp ý kiến nhiều nhất trong toàn bộ dân chúng Việt Nam cho Đảng, từng nêu lên trong một bức thư gởi Đảng phàn nàn rằng đảng viên cao cấp Nguyễn Thị Quyết Tâm muốn “kiểm tra sức khỏe” các ứng viên nghị sĩ ngoài Đảng. Vậy Trung Ương Đảng và Bộ Chính Trị là chủ soái của Nguyễn Thị Quyết Tâm thì tại sao lại để những đảng viên đau yếu bịnh tật làm Bộ Trưởng làm gì để khi bại lộ tham nhũng thì chúng lập tức lôi nội dung bịnh tật ra làm yếu tố giảm nhẹ tội danh? Thế những công dân trẻ bất chấp bịnh tật đã xung phong ra mặt trận vệ quốc và cứu quốc để rồi trở thành những Chiến Sĩ Vô Danh không để lại ngay cả một lóng xương cho mẹ cha đến ngày nay vẫn còn khắc khoải trông chờ tin lành về mộ phần của con để thực hiện hy vọng cuối đời tàn tạ già nua là dựng được cho con một mộ chí xi măng đơn giản với bát hương ấm lòng hương linh bấy lâu lưu lạc, liệu có được ưu ái như bọn đại quan bịnh tật phạm trọng tội với dân không?
6- Phản Động
Tất
nhiên, phản Đảng tức là phản-động-nội-bộ. Thật không bao giờ tổ tiên Việt Nam
có thể thứ tha cho đại tội đại ngu khi bảo vệ bọn phá hoại từ bên trong.
7- Phản Quốc
Một khi việc phá hoại từ bên trong xảy ra mà không bị trừng trị tiêu diệt, cả chế độ bị diệt vong, làm tiền đề cho sự dẫn đến hậu quả chiến tranh lan tràn, mà cái kết sẽ tất nhiên là đất nước hoặc mất cả về tay Trung Quốc hoặc bị phân chia làm bốn miền với Miền Bắc bị Trung Quốc giết sạch người Việt rồi chiếm đóng sáp nhập vào các tỉnh cực Nam Tàu, Miền Bắc Trung Phần Cộng Sản lấy Vinh làm Thủ Phủ, Miền Nam Trung Phần Cộng Hòa lấy Cam Ranh làm Thủ Phủ, và Miền Nam bị Cambodia chặt đầu toàn bộ người Việt để chiếm đoạt làm Khu Tự Trị với Thành phố Hồ Chí Minh đổi tên thành Saigonville.
Bọn
phản đảng/phản động/phản quốc đang được Đảng ra sức bảo vệ. Đó là chuyện quái
lạ không bút mực nào tả xiết.
Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Giảng-Sư Anh Văn, Nhà Tư-vấn Sách-lược Quốc
Trị, “Nhà Làm Luật” Khóa XIII, Nhà Tư-tưởng Cộng-sản Dân-tộc Thiên Khổng, Nhà Ái Quốc (do người dân phong tặng)
A) Ghi chú:
Trường Nguyễn Bá Tòng: trường trung học tư thục lớn nhất Sài Gòn của Công
Giáo ở số 73-75 Bùi Chu, Quận 1, Sài Gòn, dạy từ lớp 6 (lớp Đệ Thất) đến lớp 12
(lớp Đệ Nhất), có hai học khu gồm học khu nữ bên cánh trái và học khu nam bên
cánh phải, và ở cấp Tú Tài (tức lớp 11 và 12) có đủ các chuyên ban A (sinh
hóa), ban B (toán lý), và ban C (văn chương & ngoại ngữ). Đến năm 1971,
trường chuyển thành nữ trung học, còn nam sinh được dời lên cơ sở mới là trường
Nguyễn Bá Tòng Gia Định. Hoàng Hữu Phước chuyển lên Nguyễn Bá Tòng Gia Định ở
số 4 Hoàng Hoa Thám Gia Định học tiếp lớp 8, 9, và 10. Do nam sinh đa số bỏ
trường do không chấp nhận đi xa, cơ sở vật chất của Nguyễn Bá Tòng Gia Định trở
nên quá rộng, khiến nhà trường chia thành ba học khu gồm học khu nam, học khu
nữ, và học khu tiểu học. Chuyện tình Hoàng Hữu Phước và Đinh Thị Mai Trâm kể
trên blog này là trong khung cảnh Nguyễn Bá Tòng Gia Định. Hiện nay,
trường Nguyễn Bá Tòng Sài Gòn là trường Bùi Thị Xuân ở số 73-75 Bùi Thị
Xuân, Quận 1, Thành Phố Hồ Chí Minh, còn trường Nguyễn Bá Tòng Gia Định là trường Hoàng Hoa Thám ở số 6 đường Hoàng
Hoa Thám, Quận Bình Thạnh, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Giáo Sư Trung Học: tại Việt Nam Cộng Hòa, các từ ngữ sau được tự động sử
dụng (tức là không dựa vào bằng cấp, và càng không do “Nhà Nước” phong tặng
hoặc phong cho hoặc phong ban): Giáo viên
(dạy tiểu học), Giáo sư (dạy trung
học), và Giảng sư (dạy đại học). Các
học trò của Hoàng Hữu Phước trước 1975 sau này về thăm Việt Nam quen gọi Hoàng
Hữu Phước là “giảngsư” rồi tự hoán chuyển sang tiếng Anh
thành “professor” là do ý nghĩa cực
kỳ bình thường bình dân bình dị như vậy, chứ không ngờ ở Việt Nam có ý nghĩa
đầy khủng hoảng khủng khiếp đến độ chỉ
có đảng viên dạy học được Nhà Nước ban cho mới được gọi là “giáo sư”. Vì
vậy, các “giáo sư” Anh Văn của trung học Nguyễn Bá Tòng rất giỏi đồng thời Anh
Văn, Pháp Văn, và Hán Việt, còn các “giáo sư” Sử của trung học Nguyễn Bá Tòng
rất giỏi chữ Hán và chữ Nôm để làm dịch giả cho các áng sử nước nhà và tài liệu
Á Đông (như thầy Nguyễn Quang Tô đoạt giải thưởng Phủ
Tổng Thống cho công trình dịch thuật quyển Việt
Nam Vong Quốc Sử của Phan Bội Châu, v.v.). Trong khi đó, các “giáo sư tiến
sĩ” ở tất cả các đại học của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đều dốt nát ngoại
ngữ và không biết gì khác hơn tên phân môn ghi trong bằng cấp do không có nhu
cầu nghiên cứu gì sất, mà bằng chứng là (a)
chẳng thấy ai dám viết lách ngoại ngữ công khai như Hoàng Hữu Phước; và (b) chỉ thấy toàn thứ hoặc điên loạn bầy đàn ký tên kiến nghị loạn xạ, hoặc có
thằng tửng tửng mặc tà-lỏn đi dạy đại học về “sáng tạo”.
hoặc có đứa khùng khùng đề nghị thay đổi cách viết chữ quốc ngữ, hoặc có
tên mơ màng đòi phong anh hùng những binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa bị Tàu sát hại ở
cái gọi là “Hải Chiến Hoàng Sa”, hoặc có nhúm lú lẫn
bảo phải thay đổi hệ thống chính trị tại Việt Nam,
hoặc có bọn đần độn mất dạy không hiểu thế nào là “biểu tình dân chủ” nên hùa nhau trả lời
phỏng vấn tấn công Nghị sĩ Hoàng Hữu Phước về “dự án Luật Biểu Tình”, v.v. và v.v.
B)Tham khảo các nội dung liên kết trong
bài viết này theo thứ tự alphabet:
WordPress: https://hoanghuuphuocvietnam.wordpress.com (tham gia từ 2013 chủ yếu bằng tiếng Việt, sau khi blog tiếng Việt của Hoàng Hữu Phước hoạt động từ 2006 tại Emotino.com và Blog.com bị bọn chống Cộng đánh sập 2012)
Hoàng
Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Nhà Sử Nghiên
02-9-2019
Là “nhà sử nghiên” tất tri thức bao trùm hơn “nhà sử học” vì nghiên cứu tất thâm sâu thâm thúy thâm hậu hơn là học tập, nhất là nếu như – theo thường thấy nơi tất cả các lãnh đạo cơ quan/đơn vị/trường học nào ở Việt Nam có bằng cấp cử nhân/thạc sĩ/tiến sĩ – trong trường hợp nếu cái học tập ấy (a) không dính gì đến học hành tức trong 100% hoạt động của học hành thì chỉ có 20% học tập qua tên gọi của bằng cấp và thiếu vắng 80% còn lại bao gồm 30% từ thi thố cái đã học tập ấy vào nơi làm việc, 30% từ thành công đạt được từ quá trình thi thố cái học tập ấy vào tại cái nơi làm việc ấy, và 20% từ sự được biết đến cái thành công dính dáng đến cái thi thố cái học tập ấy vào nơi làm việc ấy; đã vậy nếu như cái học tập đầy lỗ hổng ấy lại (b) do được Đảng chủ quan tuyệt đối trong chu cấp tiền bạc để đi kiếm bằng cấp về ngồi trám vào lỗ hổng những vị trí quản lý Nhà Nước phục vụ các thế lực chính trị ích lợi nhóm chứ không nhằm làm đất nước phú cường và không nhằm làm đạo đức công vụ được khai sinh dù đã tiêu tốn những 44 năm qua; và (c) lẩn quanh lẩn quẩn trong nội dung cái tên môn ngành ghi trong văn bằng và nội dung chữ nghĩa chỉ trong các giáo trình chứ không hề dám đu leo lên tường rào lưới kẽm vây quanh rọ kiến thức hạn hẹp, nói chi đến việc vượt qua cái bó rọ “có nhiêu xài nhiêu” đó, thậm chí còn xài ít hơn hoặc chẳng xài gì cả cái mớ kiến thức ít ỏi đi mua sắm từ tiền thuế dồi dào của người dân quá khứ và người dân hiện nay gánh nợ còn cháu chắt của họ trong tương lai sẽ trả nợ. Đây là lý do vì sao tuyệt đại đa số các “nhà sử học” ở Việt Nam tuyệt đối rành rọt về (a) Lịch Sử Đảng ngay cả khi Lịch Sử Đảng vừa chưa đủ tư liệu từ tổng hợp khách quan nguồn thế giới theo đúng bài bản hàn lâm nghiên cứu Sử và viết Sử của nhơn loại hàn lâm, vừa chưa đủ thời hiệu công bố các tài liệu mật quốc gia cũng như quốc tế, vừa chưa thể được gọi ngay là “lịch sử” để toàn hệ thống giáo dục Việt Nam bắt đầu học đi học lại từ tiểu học đến hết đại học chỉ mới một ngày sau ngày 30-4-1975; và (b) Lịch Sử Việt Nam vốn được ghi rất cô đọng – nên ngắn gọn và không khó để học thuộc lòng phục vụ trích dẫn ngay khi có hai trường hợp gồm khi bị dí micro phỏng vấn vào mồm và lúc cần hăm hở tung hỏa mù nói hùng hồn về chủ quyền biển đảo cứ như thế trên đất liền và trên không đã và đang chả có bất kỳ mắc mứu tồn tại nào về chủ quyền lãnh thổ quốc gia cả – trong các bộ Sử-không-đồ-sộ của tiền nhân Việt Nam để lại, trong khi các bộ Sử ấy không có mức độ tin cậy cao gì cho cam, chẳng hạn như chuyện toàn dân tộc Việt Nam không hề thấy và không hề sờ được vào cũng như không hề biết bất kỳ nội dung gì bằng giấy trắng mực đen của cái quỷ quái thiên hạ hay luôn mồm gọi là “Thất Trảm Sớ” cũng như tên họ đầy đủ của 7 vị đại quan bị Chu Văn An bôi nhọ là “gian thần” nhất thiết phải bị chém đầu mà không cần qua xét xử công bằng là những ai nhưng vẫn khơi khơi tán tụng Chu Văn An thậm chí trước khi thi đại học phải bu đến vái lạy xin ông ta phù hộ cho đường khoa cử hanh thông để được làm quan vừa chống chính phủ vừa không thượng tôn luật pháp vừa lợi ích nhóm như ông ta, hoặc chẳng hạn chuyện chế tạo giai thoại “giả vương” để xóa bỏ chi tiết “Hoàng Đế” Quang Trung sang Tàu hành đại lễ”bảo tất” (quỳ ôm gối) “Hoàng Đế” Càn Long để xưng “nhi thần” nhận Càn Long làm “phụ vương”, v.v. Với trình độ Sử như thế, chả trách có những “nhà sử học” chẳng biết phải làm gì về “chuyên môn nghiệp vụ Sử” nên lâu lâu tuyên bố vung vít về Việt Nam Cộng Hòa là lĩnh vực họ vừa chả biết bất kỳ cái quái gì cả vừa sợ tránh gặp nhà sử nghiên Hoàng Hữu Phước để xin ban cho chỉ giáo, hoặc nổi điên bầy đoàn ký tên chống Tàu, hoặc láp giáp văng dãi về A-Lết-Xăng-Cà-Rốt, hoặc ngợi ca hộc đờm cái “Nhà Nguyễn” mà ông cố tổ của họ từng là đại quan tầm-cỡ-gian-thần, hoặc vẫy đuôi hý hửng khi Mặt Trận Tổ Quốc đẩy chui vào Quốc Hội múa mỏ khua môi dưới sự hòa âm tuyệt đối của truyền thông đại chúng chính thống, v.v. và v.v.
Bài
dưới đây là về một lĩnh vực khác ở Việt Nam Cộng Hòa mà trước ngày hôm nay toàn
thế giới chưa từng bất kỳ ai nói đến: ẩm
thực qua “bánh Trung Thu”.
A) Về Giai Tầng Xã Hội Việt Nam Cộng Hòa
Ở
Việt Nam Cộng Hòa, Sài Gòn không chỉ là trung ương đầu não chính trị duy nhất mà
còn là trung tâm duy nhất (xin nhấn
mạnh: không phải là “trung tâm chính”) về văn hóa, xã hội, nghệ thuật, giáo
dục, tôn giáo, ngoại giao, quân sự, và kinh tài. Khi nói “trung tâm kinh tế”,
điều này không mặc nhiên có nghĩa bất kỳ về sự hùng mạnh, mà chỉ đơn giản vì
các hoạt động sản xuất/kinh doanh/xuất nhập khẩu và các hoạt động khác tất
nhiên tập trung co cụm tại Sài Gòn trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt bao
trùm trên quy mô rộng lớn không chỗ trống nào thực sự thuộc quyền lực cai quản
độc tôn của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Khi nói “trung tâm tôn giáo”, điều này
có nghĩa là khi Đài Phát Thanh Sài Gòn
là đài duy nhất của Việt Nam Cộng Hòa thì từ chính cái đài đó mới có các chương
trình phát thanh chính thức của các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo, trong khi Viện Hóa Đạo do các nhà sư mang quân hàm
lãnh đạo có quyền lực chính trị kết bè kết đảng thậm chí đấu súng máu nhuộm giữa
sân chùa, còn các giám mục linh mục thì tuy cũng mang quân hàm nhưng khéo léo
hoạt động thống lĩnh chính phủ dưới sự bấm nút điều khiển từ xa remote control của Vatican (như Linh Mục Giuse Trần Hữu Thanh
phát động đại cuộc chống tham nhũng của chính quyền Thiệu chỉ sau khi nhận mật
lệnh từ một Hồng Y Tòa Thánh sang thăm năm 1974 vào thời điểm Nhà Thờ phải “làm
gì đó” để thu hoạch “chính nghĩa quốc gia” trước các cáo buộc của quốc tế về sự
thối nát của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và nguy cơ đại bại trên chiến trường
đang ngày càng rõ nét) hoặc của các Hồng Y Hoa Kỳ (để hạ sát tín đồ Công Giáo
Ngô Đình Diệm và đưa tín đồ Công Giáo Nguyễn Văn Thiệu lên thay). Và có biết bao
vai trò “trung tâm” bát nháo như vậy.
Vì
lẽ “trung tâm” như trên, các sinh hoạt ẩm thực của Sài Gòn đương nhiên thống
lĩnh sinh hoạt văn hóa ẩm thực toàn Miền Nam.
Thủa ấy, Việt Nam Cộng Hòa có ít nhất ba
giai tầng xã hội gồm người sang, người giàu, và người không-thể-giàu.
Người sang là người thuộc hoặc gia đình gia giáo, hoặc gia đình khoa bảng thiên
Khổng, hoặc thuộc gia đình theo Tây học được xem như tầng lớp có tri thức hoặc
tầng lớp trí thức. Người sang có thể
giàu hoặc không còn giàu. Ở thời mà thi
cử là để chọn lọc chắt lọc tinh lọc lựa lọc chỉ những người thực sự ưu tú và
thực sự muốn theo nghiệp khoa bảng, thì tự nhiên đương nhiên dĩ nhiên người
đi học toàn là người giỏi và người đi học thành công là người quá giỏi nên sự
kính trọng nể trọng tôn trọng của người dân dành cho họ là điều tất yếu, mà
chính cái “nhân” toàn trọng này dẫn
đến cái “quả” là tuyệt đại đa số những người được trọng đều cố giữ cho bản thân ngày thêm xứng đáng với sự trọng ấy nên họ càng sang trọng. Chưa kể, trước 30-4-1975 Âu
Mỹ được xem như nguồn tri thức duy nhất cao trọng nên những người hội đủ 4 điều kiện của (a) học tập xuất sắc, (b)
tư cách cao trọng, (c) có hoài bảo cao trọng học để phục vụ quốc gia dân tộc, và (d) có khả năng tài chính bất kể từ gia đình hay nhờ đoạt được một
trong vài học bổng ít oi của Nhà Nước để đi du học, thì càng được người dân xem
trọng; còn người du học trở về thì vì
cái được trọng ấy mà càng phải chỉnh
đốn tư cách phong cách ở mức sang trọng
hơn hẳn. Do đó, người sang trọng
thường không xem trọng người giàu có
do tuyệt đại đa số người giàu có xuất
thân từ giới thương nhân vốn thường được gán cho là tầng lớp lươn lẹo, ít học,
chụp giựt, đầu cơ tích trữ mà ngay cả Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng phải
thỉnh thoảng ra tay dẹp trừ tệ nạn lũng đoạn kinh tế này. Chính vì “sang trọng” ở đỉnh cao của ngôn từ như
vậy nên người “giàu có” mới tự chế ra
từ ngữ “giàu sang” nhập nhằng đánh
lận con đen nhằm tầm thường hóa “sang
trọng”, và sự việc còn tệ hại hơn sâu này tại Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam khi đám truyền thông nhí nha nhí nhố nhổ toẹt công khai vào “sang
trọng” với cái từ ngữ “sang chảnh” mà chúng chế ra ngay cả chỉ để quảng cáo
chiếc áo ngủ rẻ mạt mỏng dính phơi bày vú hoặc quần lót loại
chẳng-biết-mặc-làm-gì-vì-có-dây-không-có-vải của các ả người mẫu rẻ tiền công
khai trên các trang mạng bán hàng trực tuyến online rẻ rúng.
Đối
với người sang trọng thời Việt Nam
Cộng Hòa ở Sài Gòn thì hộp bánh Trung Thu phải (a) truyền thống, (b) cân
bằng, và tất nhiên phải (c) tinh tế sang trọng.
Theo
truyền thống thì Tết Trung Thu có liên quan mật thiết đến thưởng thức trà,
thưởng thức trăng, và thưởng thức sự đoàn viên vinh-hòe-quế. Uống trà, thưởng trăng là phong cách người già, người
trưởng thượng, người sang trọng. Đoàn viên vinh-hòe-quế luôn mang nội hàm cháu
con hậu duệ của người già, người trưởng thượng, người sang trọng. Truyền thống, do đó, bao trùm không gian
cả người già và con trẻ, bất kể có giàu hay không. Tất cả hình thành yêu cầu cân bằng tuyệt hảo của mỗi hộp bánh
Trung Thu gồm bốn chiếc: một bánh nướng nhân thập cẩm, một bánh nướng nhân đậu
xanh, một bánh dẻo nhân hạt sen có hạt dưa mứt bí và hạt mè – hoặc bánh dẻo
nhân hạt sen trần, và một bánh dẻo nhân đậu xanh. Còn cái sang trọng tinh tế ở đây là (a)
do chính giai tầng sang trọng thượng lưu tôn tạo duy tu bảo dưỡng truyền thống
nên tất cả các giai tầng khác đều tự động noi theo trên phạm vi toàn quốc, (b) cân bằng giữa cầu kỳ và đơn giản vì
làm bánh dẻo đơn giản hơn làm bánh nướng, (c)
cân bằng về số lượng gồm hai bánh nướng đối với hai bánh dẻo, (d) cân bằng về chủng loại bánh nướng
“mặn” bánh nướng “chay” cũng như bánh dẻo “sang” hạt sen và bánh dẻo “bình dân”
nhân đậu xanh, (e) cân bằng về vai
vế tức đáp ứng đủ cho sự quan tâm của từng lứa tuổi trong một đại gia đình, (f) cân bằng về trị giá vì bánh dẻo rẻ
tiền sánh vai trong cùng một hộp cùng bánh nướng giá cao hơn, và đặc biệt (g) làm bật phong cách giới sang trọng:
không bao giờ kỳ thị giai cấp – nghĩa là mọi gia đình mọi tầng lớp đều có hộp
bánh đồng dạng để dâng cúng tổ tiên hay tặng người trưởng thượng, và sự khác
biệt chỉ ở chỗ chiếc bánh nướng thập cẩm
có hay không có “vi cá” mà thôi.
Ngoài
ra, để đáp ứng cho trẻ con, người ta còn tinh tế sản xuất những “bánh con heo
con” tức bánh Trung Thu hình con heo loại nướng có nhân đậu xanh. “Con heo con”
có hai mắt là hai hạt đậu đen ấn vào bánh sau khi bánh đã nướng xong. Bánh dài
khoảng một tấc. Mỗi bánh đựng trong một hộp bìa cứng với nắp đậy có một tấm
thủy tinh nhìn xuyên thấu. Đây là loại bánh rẻ tiền nhất mà bất kỳ ai đã từng
một lần làm em bé ở Sài Gòn – hay Miền Nam – không thể bảo rằng ta đây đã chưa
từng ăn chưa từng thích cái bánh ấy. Cần ghi rõ ở đây rằng: con heo con nghĩa là con heo con dành cho trẻ con chứ không
phải là con heo nái với đàn heo con
bu quanh ngậm vú (mà ai đó ở Thành Phố Hồ Chí Minh hiện bày ra to đùng để bán với
giá cao cho người nhớn mua tặng người nhớn chức nhớn hoặc tặng con cái các người
nhớn chức nhớn ấy nhưng cả người nhớn tặng và người nhớn nhận đều nhớn nha nhớn nhác vì không ăn và không thích).
II- Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
A) Về Giai Tầng Xã Hội Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam
Kể
từ sau 30-4-1975, giai tầng sang trọng
ở Miền Nam
biến mất.
Họ
biến mất không vì họ đã vượt biên biến sạch.
Họ biến mất vì những gì liên quan đến
phong cách cao quý của họ bị buộc phải triệt tiêu do bị phỉ báng sai và do chịu
định kiến sai.
Gia
đình tôi được cả xóm trọng vọng vì chúng tôi không giàu có để bị ghét bỏ hay được nịnh bợ, mà vì chúng tôi sang trọng để được trọng vọng.
Người
sang trọng không bao giờ khinh khi
người nghèo khó và người yếu thế. Người sang
trọng khinh khi người xấu xa đê tiện bất kể đó là quan quyền hay thường
dân. Người sang trọng không bao giờ –
chí ít là không công khai – xem trọng người giàu
có hoặc sùng bái sự giàu có hoặc
phô trương sự giàu có. Người sang trọng khinh miệt giới trọc phú tức những người trở nên giàu có
nhờ gian manh, chụp giật, đầu cơ, nâng giá, v.v. Người sang trọng gián tiếp phô trương sự giàu có bằng cách đầu tư lớn vào hình thành Thiên Khổng: gia giáo gia phong gia đạo thiên Khổng và
học vấn cũng như tạo phong thái trên trước trong đối xử tử tế với người nghèo khó
và người yếu thế cũng như trong tư thế không xum xoe hạ mình trước người quyền
lực hoặc người giàu có. Người sang trọng không bao giờ khinh rẻ đồng
tiền của chính mình đến độ vất nó vào nghiện ngập rượu chè cờ bạc đĩ điếm xa
hoa xa xỉ, mà luôn làm những việc để chứng minh đồng tiền của mình cao quý do
tạo nên từ những việc làm cao trọng. Người sang
trọng không bao giờ ăn mặc sai, không
bao giờ ăn nói sai, không bao giờ ăn uống sai, thậm chí không bao giờ ăn nằm sai.
Ba Tôi từ khi rời Cần Thơ lên Sài Gòn
làm việc cho công ty đầu tiên là Montessieurs
ở Sài Gòn năm 1952 cho đến khi mất năm 2008 ở Thành Phố Hồ Chí Minh thì suốt
hơn nửa thế kỷ – trong đó có 33 năm làm công dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam – không bao giờ bước chân ra khỏi bậc thềm cửa nhà mà không vận âu
phục chỉnh tề với giày-tây-có-vớ, áo sơ-mi dài tay bỏ trong quần tây dài hai
ống, có đeo cra-vát, có thắt lưng, và mỗi khi dự tiệc thì mặc thêm bộ veston dù
đi bằng xe đạp hay đạp xe Mobylette
đã gỡ cất động cơ sau 1975 cho nhẹ do không có xăng.
Còn chị Hai của tôi là sinh viên năm thứ ba Ban Anh Văn Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và đồng thời cũng là sinh viên năm thứ ba Ban Anh Văn Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, khi ra trình diện tại trường theo thông báo kêu gọi của Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh trên radio và tivi, đã bị vị lãnh đạo tiếp quản trường đại học nói oang oang qua loa phóng thanh oang oang cả trường chỉ tay thẳng vào mặt chị tôi giữa đám đông rằng chị tôi là thí dụ điển hình của phong cách tiểu tư sản không thể chấp nhận được trong nhà trường đại học xã hội chủ nghĩa, phải ra về ngay, phải thay đồ “bà ba” hoặc quần tây áo sơ-mi xong mới được quay trở lại. Và chị tôi nước mắt nước mũi chảy ướt ngực chiếc áo dài trắng tinh khôi, đạp xe về, không bao giờ quay trở lại. Chị tôi, người nữ sinh viên nhànghèo luôn luôn mặc áo dài trắng từ trung học đã từng sang trọng cứu mấy nam sinh viên hùng dũng bằng cách dấu xấp truyền đơn chống Mỹ dưới vạt áo dài trắng thướt tha chạy đi ném vào bô rác ngã tư Hồng Thập Tự gần Đại Học Văn Khoa để họ thoát khỏi bàn tay sắt trừng trị của Tổng Nha Cảnh Sát, lại bị các “đồng chí” của các sinh viên chống Mỹ ấy đuổi khỏi trường vì dám mặc áo dài trắng thướt tha của giai cấp tiểu tư sản. Thế là chị tôi chỉ mặc lại áo dài khi từ Mỹ trở về ăn Tết với chúng tôi rất rất nhiều năm sau đó, và chúng tôi đưa chị đi may hai chiếc áo dài lụa hoa sang trọng để thấy chị cười vui sướng như trẻ thơ năm cũ. Từ khi không chịu “bà-ba trình diện” vì cho rằng đó không là trang phục đứng đắn chốn học đường bác học hàn lâm, chị trở thành cô quản thủ thư viện Trường Hàng Không nhờ bộ phận tiếp quản Hàng Không Việt Nam Air Vietnam chẳng có ai biết tiếng Anh sau khi tất cả các nhân viên cũ thời Việt Nam Cộng Hòa bị cho thôi việc, chỉ mặc áo sơ mi xanh da trời và quần tây xanh dương đậm hoặc đen theo quy định cho đến ngày có một vị cựu dân biểu “đối lập” (chống Mỹ, chống Nguyễn Văn Thiệu, chống Cộng Sản Bắc Việt, và chống các “đối lập” khác) vừa được Nhà Nước thả khỏi nơi cãi tạo đến kiếm cháu gái đang công tác tại đó tình cờ gặp chị rồi xin Ba Má tôi được cưới chị để đưa chị sang Mỹ theo diện HO. Chị tôi ước ao đi Mỹ du học, nhưng do đỗ Tú Tài I hạng Bình và Tú Tài II hạng Thứ nên không xin được học bổng Nhà Nước vốn chỉ cứu xét cho vài người trong số đỗ Tú Tài hạng Ưu trong khi gia đình chỉ sang trọng chứ không giàu có, nên chị thi vào đại học trong nước để trở thành giáo sư Anh Văn trung học. Thế là chị tôi sang Mỹ để làm công dân Mỹ, dạy mẫu giáo và dạy dỗ hai con trai để một đứa làm kỹ sư và một đứa theo đuổi ngành Y mà cả hai đứa này đều nghe mẹ kể rằng gia đình bên Ngoại rất sang trọng cao quý thanh bần chứ chưa từng nghe mẹ kể gì về giai cấp “tiểu tư sản” của bên Ngoại cũng như về việc mẹ đã bị đuổi khỏi đại học chỉ vì mặc áo dài nữ sinh cả. Chị tôi đã nhường vị trí người Việt Nam duy nhất làm chủ tiếng Anh tầm cỡ thi bá văn vươnglại cho tôi vì cái tem dán “tiểu tư sản” mà lãnh đạo trường đính lên tà áo dài trắng của chị ấy. Có điều, tôi cũng như Ba tôi và chị của tôi: chưa bao giờ từ bỏ phong cách sang trọng của mình, cái mà nói chi đến “tiểu tư sản” vì ngay cả “đại tư bản” nam nữ già trẻ lớn bé ngày nay ở Việt Nam – từ giới “giàu có” cho đến giới “chính trị” – tôi cũng chưa từng thấy có bất kỳ ai sang trọng cả vì “giàu có” cứ bị gắn vào nội dung “có tiền” để phải xài hàng xa xỉ ăn uống xa hoa cao lương mỹ vị toàn nem công chả phượng râu rồng rượu gần trăm triệu mỗi chai, đờn ông phải xài tiền hoặc đeo tiền đầy người để làm “đại gia”, đờn bà phải mở công ty để làm “phujnuwx thành đạt”, để rồi hoặc nhấn ga siêu xe húc chết phụ nữ hốt rác ven đường, hoặc cưỡng dâm thực tập sinh, hoặc đào tạo nữ sinh trung học làm đĩ, hoặc cưỡng hôn trẻ nít, hoặc phá tanh banh cơ nghiệp ngân hàng hay doanh nghiệp mà Nhà Nước dâng cho, hoặc hớn ha hớn hở hân hoan chìa vú ểnh mông biện bày sự phì nhiêu trên thảm đỏ.
Do
giai tầng xã hội nào thống lĩnh xã hội sẽ quyết định nhiều thứ trong đó có ẩm
thực, nhất thiết phải xem giai tầng xã hội Việt Nam từ 30-4-1975 đến nay gồm
những bậc nào trước khi nói về Bánh Trung Thu.
Hiện Việt Nam có ít nhất ba giai tầng xã
hội gồm người phải giàu, người giàu, và người nghèo.
Người-phải-giàu
là người được Nhà Nước trao cho chiếc ghế trên đó là một núi tiền, nên người đó
tự nhiên tự động giàu có vì thường
thì chỉ khi (a) xài sạch hết tiền sau
khi hốt đem về nhà mình, đem về nhà các lãnh đạo trong lợi ích nhóm, đem cho
đối tác trong và ngoài nước để hưởng “lại quả”, và (b) chất núi tiền đem đốt để vừa chứng minh hùng hồn ta đây đốt cả
tấn “dollar” Mỹ hơn thằng công tử gì đấy ở Bạc Liêu thời Pháp đốt có nắm tiền “piastre”
Đông Dương, vừa có lửa nướng khô mực một nắng hai sương, thì mới bị Nhà Nước
nhìn thấy ánh lửa, ngữi thấy mùi khét, phát hiện thấy làn khói; song, phải chờ chừng nào có lò lửa nhóm lên mới bị xét
xem có tội hay không và tội đó có vô tình dính đến vị lãnh đạo nào đã lỡ được
tôn vinh là người học trò xuất sắc của lãnh tụ Hồ Chí Minh hay không để được tha
thứ. Không còn nghi ngờ gì nữa, bọn chống Cộng (tức Chống Việt) khi chế tạo ra
từ “tư bản Đỏ”
là để ám chỉ những người-phải-giàu này.
Người-phải-giàu
là người giúp hình thành giai tầng người-giàu, vì rằng khi các luật lệ quy định
thông thoáng nhằm tạo điều kiện cho những người được chọn chosen ones nhanh chóng trở thành “đại gia” cho-có-với-người-ta khi
đến thời hạn quy ước phải “mở cửa” cho “người ta” toàn là “đại gia nước ngoài” ùa
vào đe dọa thống lĩnh thị trường nội địa, thì các luật lệ ấy cũng vô tình tạo
luôn điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân bám theo mọc lên hơn nấm dưới áo khoác entrepreneurship mà doanh nghiệp tư
nhân bao gồm cả những “tư nhân” là gia đình của, hay gia đình thân quen với các
lãnh đạo chính trị. Những người ăn theo cơ chế chung với người-phải-giàu này là
người-giàu.
Người-giàu
là người tự dưng giàu – vì toàn bộ người
giàu nền tảng trước 30-4-1975 đã không còn – nhờ may mắn (a) là hậu duệ của các lãnh đạo nên khôn
ngoan rời bỏ Đảng để hóa thân thành tư nhân tận dụng các mối quan hệ với Đảng để
trở thành chủ đầu tư chả biết từ đâu cho các siêu dự án quốc gia mà ba
đặc điểm đặc thù đặc sệt tính bất biến của các dự án này là đội vốn khủng
khiếp, dây dưa khiếp khủng, và công trình luôn oe oe quấn rốn nằm nôi hoài phải
được bồng bế cho bú hoài chứ chẳng bao giờ có công trình nào tiến được đến mốc thất thập cổ lai hy; (b) thừa nước đục thả câu lúc Nhà Nước
lụp chụp cổ phần hóa để biến tài sản Nhà Nước thành tài sản cá nhân với giá rẻ
mạt; và (c) gặp thời cơ “mở cửa” để
đón đủ thứ phải gió gồm gió đầu tư
công nghiệp không-bao-giờ-kèm-hệ-thống-xử-lý-chất-thải-ra-hồn, gió “đi tắt đón đầu”, gió “hợp tác bốn nhà”, gió “phát triển công nghệ thông tin”, gió
“chấm-không”, gió “đào tạo nhơn tài”, gió “không khói”, gió “đặc khu”, gió “địa ốc”, và gió “ốc bươu
vàng”, v.v. và v.v., mà mỗi thứ gió đều dẫn đến khủng hoảng nợ công mà có đánh gió với dầu khuynh diệp cũng không
qua cơn choáng váng. Người-giàu luôn phối hợp nhịp nhàng với “người-phải-giàu”
để cùng thực hiện nhiệm vụ chính trị cao quý về kinh tế.
Trong
khi đó, người-nghèo gồm tập hợp (a)
những người giàu Việt Nam Cộng Hòa đã mất vị thế giàu sau 30-4-1975; (b) những người không-thể-giàu Việt Nam Cộng
Hòa biến thành người-nghèo sau 30-4-1975; (c)
những người nghèo mới xuất hiện từ số dân sinh sau 30-4-1975 do chế độ mới chưa
cho phép tồn tại khu vực sản xuất kinh doanh tư nhân trong khi để có được một
chỗ được gọi là “cán bộ công nhân viên Nhà Nước” không bao giờ là việc dễ dàng,
còn buôn bán lề đường bị đuổi bắt, trong khi ngăn sông cấm chợ là một thời đau
đớn cho bất kỳ ai không là “biên chế Nhà nước” hoặc “xã viên hợp tác xã nông
nghiệp”, v.v.; và (d) những người
chịu ảnh hưởng của chính sách giải phóng
phụ nữ – tức thay vì “tự do” theo “nghề nghiệp” nội trợ còn chồng đi làm
được hưởng “trợ cấp ăn theo” cho vợ và các con thì họ buộc phải “được giải phóng” khỏi việc bếp núc nuôi
con, phải bỏ con cho ông bà hoặc nhà trẻ chăm sóc, còn bản thân phải đi làm
công nhân mới được xem là có “nghề nghiệp” để nhận lương mà cái lương ấy cộng
với lương chồng cũng không đủ chi dùng, trong khi con cái không còn được cha mẹ
gũi gần giáo dục lại quá dễ thành nạn nhân bạo lực nhà trẻ tức bị đánh đập, bị chưởi
mắng, bị nhốt “cầu tiêu”, hay bị phân biệt đối xử dựa theo giá trị tiền quà
tặng của phụ huynh, v.v., nên về sau hiếm thấy học sinh tỉnh táo, mà thay vào
đó là học sinh dễ bốc đồng, dễ phạm tội, dễ thành lừa hoặc đi lừa, dễ…biểu
tình, dễ ngỗ ngáo, dễ thi thố song phi vào mặt giáo viên, và dễ phản kháng xã
hội, thích la cà thật trên không gian ảo, và nghiện chọi đá xe khách, v.v.
B) Về Hộp Bánh Trung Thu Thời Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Như
đã nói ở trên, giai tầng xã hội nào thống lĩnh xã hội sẽ quyết định nhiều thứ
trong đó có ẩm thực.
Việt
Nam hiện nay được thống lĩnh bởi người-phải-giàu và người-giàu, trong khi
người-nghèo lại có một bộ phận không nhỏ từng xuất thân từ người-giàu nên nhất
cử nhất động của người-phải-giàu đều tự động trở thành sự đồng tình tuân theo
đầy máy móc và lắm ngưỡng mộ của các tầng lớp còn lại..
Người-phải-giàu
không cho rằng bánh dẻo rẻ tiền xứng đáng với “đẳng cấp” của họ. Người-giàu
không cho rằng nên tặng người-phải-giàu những thứ bánh rẻ tiền vốn không bao
giờ phù hợp với sự “biết điều” nhắm đến việc “đền ơn” hoặc “nhắc khéo xin thêm
sự ra ơn”. Người-nghèo mong bán được nhiều bánh cao giá nên chỉ mong được đặt
hàng gia công toàn bánh nướng. Những người-nghèo khác thì đa số cho rằng nhận
được bánh nướng thì bản thân sẽ vui lòng hơn. Và bánh dẻo Trung Thu biến mất.
Rồi
thì để bán được nhiều bánh hơn dựa vào lạ và đắt, các người-giàu chủ nhân các
cơ sở làm bánh chế ra bao thứ bánh nướng với nào là một trứng hai trứng, gà
quay vịt quay heo quay, sầu riêng sầu chung, trà xanh, mè đen, tỏi đen, v.v. và
v.v., rồi sẽ tiến đến bánh nướng Trung Thu nhân kim chi, nhân ớt Hàn 7 cấp độ, nhân
sê-ri Mỹ, nhân táo Niu Di Lơn, nhân dưa chua củ kiệu, nhân hột vịt lộn, nhân xá
bấu, nhân xá xíu, nhân …xà ngầu, v.v. và v.v. trong một ngày không xa lắm.
Thế
là vợ tôi phải tự làm bánh dẻo (tôi phải tham gia nhào bột rồi phụ trách
việc đóng khuôn mõi rừ tay mà hoa văn
chả sắc nét gì cả) để cúng tổ tiên, vì quà tặng Trung Thu tôi nhận được mấy
thập niên qua (dù trước đây mỗi năm mấy trăm hộp do nhân viên và đại lý cùng
các văn phòng đại diện nước ngoài gởi tặng mà tôi tặng lại cho người quen,
người lạ nghèo, kể cả mấy người hốt rác hay mua ve chai, hay sau này mỗi năm
chừng 10 hộp) thì chả có hộp nào có bánh dẻo. Còn tôi khi cháu tôi về đã mua
bánh con-heo-nái-cho-đám-heo-con-bú bự
chà bá cho nó ăn theo mong mỏi thèm thuồng nhớ nhung của nó, nhưng nó nói
sao bánh không có hương vị thơm ngon như con-heo-con hồi xưa. Tôi giải thích do
heo ngày xưa ăn cám trộn rau muống và thân cây chuối, còn heo ngày nay ăn thực
phẩm chức năng trộn thực phẩm hữu cơ siêu sạch nên hương vị phải khác. Học trò
ruột thì biết ý tôi quen sống thanh bần thanh sạch thanh bạch thanh liêm hoài
cổ hoài niệm hoài hoài nên không bao giờ mua tặng tôi bánh nướng sang trọng đắt
tiền của các nhà sản xuất “đại gia” ở Việt Nam, mà toàn tặng tôi bánh dẻo Trung
Thu đủ màu sắc giản đơn tinh tế diện “hàng xách tay” rẻ tiền từ Nhựt Bổn, Hồng Công
và Xinh-Ga-Bo, khiến tôi vô cùng cảm kích hạt châu
rơi lả tả.
Tóm
lại, các hộp bánh Trung Thu toàn-nướng
như ở Việt Nam ngày nay không phải là hộp bánh của giới thượng lưu sang trọng đâu các bạn ạ. Còn nếu các bạn gọi đó là
bánh Trung Thu thượng cấp sang chảnh
thì đó là quyền của các bạn. Tự do ngôn luận mờ! Bản thân tự loại của “sang chảnh” thì đã tự nói rõ về đẳng cấp của chính nó
rồi.
Hoàng
Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Nhà Sử Nghiên
Hợp
tác bốn nhà: Tầm Nhìn Của Nghị Sĩ Hoàng Hữu Phước
28-01-2016 có trích đăng lại phần “Hợp Tác Bốn Nhà” trong bài viết năm 2010
trên Emotino tựa đề “Tư Vấn Phát Triển
Ngành Kỹ Nghệ Gạo Việt Nam” lập lại ý chính của bài “Hợp Tác Bốn Nhà Hay Năm, Sáu, Bảy, Tám Vạn Nhà” viết riêng phê bình
đề tài “hợp tác bốn nhà” đăng trước đó cũng trên Emotino.
You must be logged in to post a comment.