Tứ Trụ Bắc Việt

Đệ Tam Thập Thất Kế – Phần 1

Hoàng Hữu Phước, MIB

19-7-2016

Part 1 (17)A) Giải Thích Từ Ngữ

Đệ Tam Thập Thất Kế: Kế thứ 37, thêm vào 36 Kế của Tôn Võ Binh Pháp.

Tứ Trụ Bắc Việt: Bốn trụ cột tức bốn nhân vật sau của Bắc Việt

– “Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” Hồ Chí Minh: lãnh đạo đất nước trong nội trị và đối ngoại trên trường quốc tế,

– “Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam” Hồ Chí Minh: lãnh đạo thế lực chính trị duy nhất hùng mạnh,

– “Chủ Tịch Đảng Lao Động Việt Nam” Hồ Chí Minh: lãnh đạo toàn dân, và

– “Lãnh Đạo Trực Tiếp Của Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Đại Tướng Võ Nguyên Giáp” Hồ Chí Minh: lãnh đạo toàn quân bất khả chiến bại

Bắc Việt: tên tiếng Việt từ tiếng Anh North Vietnam mà (a) toàn bộ thế giới truyền thông tư bản dùng để gọi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và (b) Việt Nam Cộng Hòa luôn dùng trong nhóm từ “Cộng Sản Bắc Việt”.

Nam Việt: tên của Lăng Tần gọi theo (a) tiếng Anh South Vietnam mà toàn bộ thế giới truyền thông tư bản dùng để gọi Việt Nam Cộng Hòa, và (b) để nhắc khéo phe luôn tưởng nhớ thờ phượng Việt Nam Cộng Hòa rằng một khi họ luôn xài từ “Bắc Việt” thì họ phải chấp nhận chữ “Nam Việt” cho chính họ, chứ đừng chơi cha thiên hạ bằng cách luôn gọi cái của họ một cách đầy đủ là “Việt Nam Cộng Hòa”.

7 Trụ Cột: 7 thế lực của 5 tên da vàng độc tài tàn bạo do Mỹ dựng nên, 1 tên da trắng hăng tiết vịt do Mỹ tác động, và 1 tên da trắng do Mỹ ép buộc phải tham gia liên minh. 7 thế lực này do Mỹ hình thành nhằm (a) phục vụ Kế Thứ 37, và (b) làm chân chống cho một mặt bàn mà trên đó Mỹ ngồi chễm chệ.

Cọng Hòa: là chữ dùng bởi Nam Việt trong tên quốc gia Việt Nam Cọng Hòa do dị ứng với chữ “Cộng” làm gợi nhớ đến chuỗi “chống Cộng” và “Cộng sản”. Đây là sự thật lịch sử thời Ngô Đình Diệm và kể cả Nguyễn Văn Thiệu. Chỉ có báo chí lúc Nam Việt sắp bị xóa sổ và báo chí Việt kiều hải ngoại sau khi Sài Gòn thất thủ mới dùng từ “Việt Nam Cộng Hòa”, ắt do thấy “Cọng” là điềm báo của sự lọng cọng, không vững, tiến tới sụp đổ chăng.

Phi Luật Tân: là từ của Nam Việt gọi Philippines Cọng Hòa (cùng công thức tên gọi của Việt Nam Cọng Hòa, tức chữ Cọng Hòa đứng sau). Tiếng Việt hiện đại của Việt Nam gọi là Cộng Hòa Phi Líp Pin.

Đại Hàn: là từ của Nam Việt gọi Korea Cọng Hòa (cùng công thức tên gọi của Việt Nam Cọng Hòa, tức chữ Cọng Hòa đứng sau). Tiếng Việt hiện đại của Việt Nam gọi là Hàn Quốc.

Thái Lan: tức Vương Quốc Thái Lan, tức Thailand. Lịch sử ngôn từ tiếng Việt không ghi nhận bất kỳ sự biến đổi nào của cụm từ “Thái Lan”, trừ thủa xa xưa lúc Việt Nam còn xem Thái Lan như xứ mọi dưới tên gọi Xiêm La.

Nam Dương: là từ của Nam Việt gọi Indonesia Cọng Hòa (gọi theo kiểu thứ tự của Việt Nam Cọng Hòa). Tiếng Việt hiện đại của Việt Nam gọi là Cộng Hòa In Đô Nê Xi A.

Úc Đại Lợi: là từ của Nam Việt gọi Commonwealth of Australia tức Australia Khối Thịnh Vượng Chung thuộc Vương Quốc Anh. Tiếng Việt hiện đại của Việt Nam trong sách giáo khoa trung học gọi là Âu Xờ Trây Li A hoặc Ốt Xơ Tơ Rây Li A, trong khi bản tin thể thao luôn dùng “Úc” như khi nói về “Giải Úc Mở Rộng” chẳng hạn.

Tân Tây Lan: là từ của Nam Việt gọi New Zealand. Tiếng Việt hiện đại của Việt Nam gọi là Niu Di Lơn.

Sài Gòn Thất Thủ: là dịch từ cụm từ duy nhất trong tiếng Anh “The Fall of Saigon” được sử dụng trên toàn thế giới Âu Mỹ và Việt Kiều chống Cộng, do không thể cam chịu hạ mình dùng cụm từ chính xác hơn là Miền Nam Được Giải Phóng hay Việt Nam Cộng Hòa Sụp Đổ hoặc Chế Độ Cộng Hòa Thất Bại.

B) Hoa Kỳ Và Đệ Tam Thập Thất Kế

Tàu nhờ có uy siêu cường nên dù tất cả các kỳ tích đạt được như sáng chế thư pháp, sáng chế thuốc nổ, sáng chế giấy viết, và sáng chế thuật châm cứu, v.v., đều do toàn những người Việt gồm nghệ nhân, thầy thuốc, thầy chiêm tinh, thầy đồ, thầy thủ công mỹ nghệ, thầy xây dựng – chưa kể biết bao trinh nữ sắc nước hương trời để cải tạo nòi giống Tàu cho thêm có ngoại hình xinh đẹp và biết bao sừng tê ngà voi dâm dương hoắc cùng vàng ròng châu báu – do các vị vua chúa Việt Nam hàng năm tấn cống nên Tàu mạo danh hê lên rằng tất cả là do dân tộc Tàu tạo ra, kể cả binh pháp binh thư toàn bắt chước từ các tướng lĩnh của Việt Nam cũng bị hê lên là do mấy ông này ông nọ tổ tiên của Tàu sáng tác từ thời Đông Chu Liệt Quốc. Trên thực tế, Tàu có công cống hiến cho nhân loại chỉ ở kế thứ 36, tức là Đào Tẩu Kế, nghĩa là nếu thấy không xong thì…bỏ của chạy lấy người.

Hiện đại hơn, Hoa Kỳ đã cho nhân loại thêm một kế thứ 37 thành tổng cộng có Tam Thập Thất Kế, và kế mới này mang tên Độc Tài Chung Cư Kế , nghĩa là các nhà độc tài ở chung trong một chung cư cao tầng chỉ biết những căn hộ gần bên mà không biết được các “ngọa hổ tàng long” ở các tầng khác ngay trên đầu mình hay tầng ngay dưới mông mình. Nói tóm tắt thì Kế thứ 37 là “kế hoạch siêu dự phòng” dựa trên cơ sở mỗi khi phải đụng trận với một đại siêu cường thì phải tổ chức thêm một vài lực-lượng-dự-phòng-ngồi-ghế-dự-bị thật ghê gớm cao tay ấn hơn lực-lượng-ra-sân-chính để khi được cho vô sân thế chỗ là ngay lập tức ghi bàn mà cụ thể như sau:

 Part 1 (18)

Các thí dụ lịch sử sau sẽ minh chứng cho đệ tam thập thất kế – tức kế thứ 37 – do Mỹ đăng ký bằng sáng chế.

C) Thất Trụ Do Hoa Kỳ DỰng Xây Chống Lại Tứ Trụ Bắc Việt

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (gọi tắt là Bắc Việt theo tên tiếng Anh của báo chí Hoa Kỳ gọi là North Vietnam) là một đại siêu cường quốc trong mắt Mỹ nên Mỹ đã ra tay thực hiện Kế Thứ 37 để bảo đảm thắng lợi.

Nhận thấy Bắc Việt có “tứ trụ” gồm bốn nhân vật kiệt xuất lừng danh gồm:

Part 1 (16)

 Mỹ đã hình thành một “thất trụ” nhằm đánh bại bốn nhân vật Cộng sản vĩ đại trên, ngăn chặn bủa vây Cộng Sản Bắc Việt, giúp Nam Việt thực hiện đại cuộc Bắc Tiến giải phóng miền Bắc, thống nhất đất nước Việt Nam mà không cần thực hiện Hiệp Định Geneve.

Thất trụ chống cộng bao gồm 5 trụ đồng dưới quyền thống soái của 5 tên da vàng đại độc tài đại tàn bạo và 2 trụ xi măng dưới quyền thống soái của 2 tên da trắng của thế giới văn minh mà có kẻ được Nữ Hoàng Anh phong tước hiệp sĩ và kẻ còn lại là danh nhân tiền bối của dân tộc hắn. Trong Thất Trụ, có 6 trụ trực tiếp tham chiến dưới gậy đại nguyên soái của Mỹ và 1 trụ dự phòng.

Part 1 (1)

Dưới đây là lịch sử nêu bật việc sử dụng nhuần nhuyễn kế thứ 37 của Mỹ:

1- Nam Việt

Muốn diệt siêu cường Bắc Việt, Mỹ tin tưởng tuyệt đối vào công thức “mãnh hổ nan địch quần hồ” nên đã nuôi nhiều nhóm sài lang hung bạo tàn ác chống Cộng điên cuồng nhằm bủa vây Bắc Việt. Trước tiên, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống Nam Việt để y ra tay tàn sát bất kỳ ai thân Cộng mà “icon” tàn dư phong kiến tiêu biểu của y là kéo máy chém đi khắp Nam Việt để thực hiện chuyện mà y do thói quen từ quá khứ làm quan lại Nguyễn Triều là thích và tin tưởng vào chuyện “chém đầu thị chúng” tức chém đầu nơi chợ để thị uy làm dân chúng khiếp đảm kinh sợ mà không phạm phải tương tự.

Part 1 (15)

Mỹ cũng chuẩn bị lực lượng kế thừa có nanh vuốt đáng gờm hơn Ngô Đình Diệm để ẩn núp ký cư trong vỏ ốc đúng theo đệ tam thập thất kế của Mỹ.

Ngay khi thấy Ngô Đình Diệm để yên cho gia tộc – nhất là vợ chồng Ngô Đình Nhu – gây ra nhiều họa lớn như đàn áp Phật Giáo mà người phụ nữ tên Trần Lệ Xuân này

Part 1 (14)

 (vợ Ngô Đình Nhu) ngoài việc luôn buộc mọi người trong nước và nước ngoài phải gọi mình là Đệ Nhất Phu Nhân bất chấp đó là danh xưng chỉ dùng cho vợ của  Tổng Thống của một quốc gia, đã cười cợt với phóng viên nước ngoài rằng mấy nhà sư tự thiêu thì có khác gì món barbecue mà ai đó cho mụ ta xin một miếng thịt nướng ấy với; cũng như thấy hiệu quả “diệt Cộng” của Ngô triều không hiệu quả, bản thân Ngô Đình Diệm không còn răm rắp tuân lịnh Mỹ, và thậm chí Ngô Đình Nhu còn hàm ý sẽ suy nghĩ đến việc “đàm phán” với Bắc Việt, Mỹ liền thực hiện chi tiết 37.5 theo đúng tinh thần “nuôi quân ba năm, sử dụng một giờ”. Cuộc đảo chánh nhằm giải quyết tên tay sai Ngô Đình Diệm đã diễn ra nhanh chóng với sự động thủ của con sài lang mang tên Nguyễn Khánh

Part 1 (13)

Ngô Đình Diệm bị truy sát. Bức ảnh sau đây diễn tả đúng y tinh thần phong cách Mỹ mà nhiều bài viết trước trên blog này đã đăng tải nhiều hình ảnh tương tự: kẻ sát nhân nghiêng người tươi cười chụp hình với xác chết của nạn nhân mà ở đây là xác Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm:

Part 1 (11)

Để chứng tỏ Mỹ không hề can dự gì vào việc sát hại “Ngô Tổng Thống”, các tướng lĩnh như Nguyễn Khánh và Dương Văn Minh đột nhiên bị cho ra rìa trong cơn hoan lạc sắp lên làm lãnh đạo quốc gia, nhường hẳn sân khấu chính trị cho hai “sài lang” dữ dội hơn hẳn Ngô Đình Diệm và Nguyễn Khánh, đó là:

Part 1 (10)

Để thực hiện nghiêm túc phần 37.1, Hoa Kỳ thậm chí còn làm ngơ trước các cáo buộc của các nhà báo Mỹ rằng Thiệu-Kỳ và các tướng lĩnh đã sử dụng quân đội vào việc bắt tay với Tướng Vang Pao (do CIA hậu thuẫn ở Lào) buôn lậu thuôc phiện từ vùng Tam Giác Vàng của Khun Sa tại Miến Điện (tức Burma, nay là Myanmar) về cung cấp cho đoàn quân viễn chinh Mỹ và đồng minh. Tuy nhiên, sự tập trung vơ vét làm giàu của một chính phủ quân sự, kèm với những gấu ó tranh giành quyền lực giữa các mãnh thú đã khiến câu hỏi trên tạp chí Time

Part 1 (9)

 “bao giờ Mỹ mới bắt đầu rút đi” với hình vẽ gương mặt đăm chiêu của Nguyễn Văn Thiệu trở thành dấu hiệu báo trước sự sụp đổ không thể nào tránh khỏi của cả Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Dù rằng khi nhận thấy sự bất tài vô dụng của kế hoạch kế thừa trong điều 37.5, Mỹ đã buộc lòng chế tạo ra một thứ gọi là điều phụ 37.3.a. theo đó Mỹ sẽ cùng các nhà độc tài “liền kề” đem quân vào thay mặt Nam Việt để trực tiếp đánh nhau với Bắc Việt nếu phát hiện Nam Việt không biết cầm súng chiến đấu, vậy mà rốt cuộc Mỹ phải bó tay vì tham nhũng ở Nam Việt trầm trọng đến độ phe Nam Việt bán luôn bí mật hành quân của Mỹ và đồng minh cho Bắc Việt.

Cái di họa ghê gớm của việc Mỹ cho phép sát hại Ngô Đình Diệm còn ở chỗ ngày nay tự dưng có thêm nhiều người chống Mỹ với đặc điểm kỳ lạ: họ đến thắp hương tưởng niệm Ngô Đình Diệm, viết bài ngợi ca Ngô Tổng Thống, kể cả trong số họ có người nhận học bổng của Mỹ qua Mỹ du học “thành tài” trở về Việt Nam phục vụ “tự do, dân chủ, nhân quyền”. Dường như sự cung kính cúi lạy kẻ đã bị Mỹ cho phép sát hại là một hành vi vô cùng minh triết với ngụ ý thâm sâu nhằm chưởi xéo cả Mỹ và các vị tướng lĩnh Việt Nam Cộng Hòa đã tham gia tích cực thực hiện ý muốn của Mỹ. Chiến tranh đã qua đi nhiều chục năm nay, vậy mà vài người tôn thờ Mỹ ấy lại muốn dấy lên sự chưởi xéo cả Mỹ và các vị tướng lĩnh Việt Nam Cộng Hòa vốn là một việc không nên làm trong bối cảnh Mỹ đang muốn gần gũi với Việt Nam Cộng Sản nên e ngại e thẹn e dè không bút mực nào tả xiết mỗi khi nghe tin có người đến lạy mộ Ngô Đình Diệm.

2- Đại Hàn

Đại Hàn là một quốc gia oằn oại dưới sự cai trị sắt máu của vị Tổng Thống Park Chung-hee được Mỹ cưng yêu chiều chuộng và ái mộ. Park Chung-hee đã gởi 320.000 quân trực tiếp tham chiến chủ lực bên cạnh Hoa Kỳ tại Nam Việt. Sự khét tiếng không làm ô danh Park Chung-hee được sử sách ghi nhận bởi các sư đoàn Mãnh Hổ, Thanh Long và Bạch Mã, với các trận đại chiến ở Bồng Sơn, Trà Bình, và Chiến Dịch Hong Kil Dong, mà các cuộc thảm sát thường dân vô tội đã làm thế giới bàng hoàng như cuộc thảm sát Bình An năm 1966 (tỉnh Bình Định, sát hại 1.200 dân làng không vũ trang – kể cả màn gom tụ 68 dân làng rồi xả súng giết sạch – chỉ còn 3 dân làng sống sót), cuộc thảm sát Bình Hòa năm 1966 (tỉnh Quảng Ngãi, sát hại 403 dân làng không vũ trang, đa số là các bô lão, phụ nữ, và trẻ em, trong đó có 21 thai phụ; toàn bộ làng bị thiêu rụi, kể cả hàng trăm trâu bò bị bắn chết), cuôc thảm sát Bình Tài năm 1966 (Tỉnh Quảng Ngãi, sát hại 168 dân làng bằng cách đốt làng để dễ bắn hạ từng người một những ai chạy ra ngoài hỏa ngục), cuộc thảm sát Hà My năm 1968 (tỉnh Quảng Nam, sát hại 135 bô lão, phụ nữ và trẻ em trong 30 căn nhà, sau đó dồn tất cả các xác chết xuống một hố cạn do xe cơ giới đào xới và chôn lấp tập thể), và cuộc thảm sát Phong Nhị – Phong Nhất năm 1968 (tỉnh Quảng Nam, tàn sát dân làng đa số là phụ nữ và trẻ em, với bao trường hợp các phụ nữ bị cắt mất vú và để nằm hấp hối chết dần).

Part 1 (8)

Park Chung-hee đã phải rút hết quân ra khỏi Nam Việt sau khi tổn thất 16.065 binh sĩ thương vong.

Park Chung-hee bị giết trong một cuộc “đảo chánh” năm 1979, kết thúc cuộc đời tên độc tài tàn bạo y như kiểu chết của tên độc tài tàn bạo Ngô Đình Diệm. Con gái đầu lòng của tên độc tài Park Chung-hee thế kỷ XX là Park Geun-hye, đương kim Tổng Thống nước Đại Hàn của tự do và dân chủ thế kỷ XXI đang cùng toàn dân Hàn Quốc rất yêu trọng đất nước và nhân dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Tuy nhiên, di sản của Park Chung-hee dành cho con gái Park Geun-hye lại làm cho vị nữ tổng thống này hứng chịu búa rìu dư luận Mỹ Âu khi bị so sánh với “gia đình trị độc tài” của Bắc Hàn:

Part 1 (2)

3- Thái Lan

Part 1 (7)

Thái Lan là một quốc gia theo thể chế quân chủ lập hiến với sự tồn tại của hoàng triều. Dù theo lý thuyết, quân chủ mang nội hàm vương quyền độc tài, Thái Lan lại có một hoàng gia mang tính hình thức, và đây là điều tuyệt vời cho Hoa Kỳ khi hiến pháp Thái Lan ấn định tính độc lập của quân đội, mà trong thực tế quân đội Thái Lan rất thường tiến hành các cuộc lật đổ chính phủ để chính quân đội nắm quyền. Tướng Thanom Kittikachorn là một nhà độc tài nắm quyền chuyên chính theo cách đó. Là người kiên trì quyết tâm chống Cộng, Thanom áp đặt sự cầm quyền quân sự tại Thái Lan từ năm 1963 đến 1973, và thậm chí khi trở về năm 1976 sau thời gian tỵ nạn y lại là nguyên nhân gây ra những cuộc xuống đường rầm rộ khiến xảy ra những cuộc thảm sát mới và cuộc binh biến đảo chính mới. Thoạt đầu, Thanom cho Mỹ sử dụng các căn cứ không quân và hải quân ở Thái Lan để xuất kích tấn công Bắc Việt, Lào và Kampuchia. Trong thời gian từ 1961 đến 1975 Mỹ đã xây dựng và sử dụng tất cả 7 căn cứ không quân ở Korat, Udon Thani, Nakon Phanom, Ubbon Ratchathani, Khon Kaen, Utapao và Bangkok với hơn 400 chiến đấu cơ và 25.000 nhân sự, trong đó cái tên người dân Nam Việt thường nghe nhắc đến trong thời gian chiến tranh là Utapao do đó là căn cứ của các pháo đài bay chiến lược B52 xuất kích tàn phá Bắc Việt. 80% các cuộc không kích tại Bắc Việt là xuất phát từ các căn cứ này, và chỉ có 20% cất cánh từ các sân bay Nam Việt. Thái Lan gởi bộ binh tham chiến bên cạnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam với 38.000 binh sĩ mà khét tiếng là Sư Đoàn Mãng Xà và Hắc Báo. Quân số tham chiến tăng lên đến 15% tổng quân lực Thái Lan. Thái Lan đã phải rút toàn bộ lục quân khỏi Nam Việt tháng 4-1972 với 1.709 binh sĩ thương vong.

Nhờ Chiến Tranh Việt Nam mà Thái Lan vươn lên trở thành cường quốc khu vực, và vì kế sách 37 của Hoa Kỳ trong tạo giống cho bọn độc tài khát máu mà Thái Lan đắm chìm trong bất ổn chính trị kéo Thái Lan từ đỉnh cao kinh tế rơi tự do xuống trũng của suy thoái, nhường hẳn vai trò thống soái khu vực cho Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

4- Philippines

Là một nhà độc tài chống Cộng khét tiếng trên toàn thế giới ở mức độ tàn bạo và tham nhũng cũng như cai trị bằng việc thực thi thiết quân luật đàn áp sắt máu kéo dài trong 10 năm (1972-1981), Ferdinand Marcos làm Tổng Thống Philippines suốt từ năm 1965 đến 1986

Part 1 (6)

Đáp ứng kế sách 37.3 của Hoa Kỳ, Ferdinand Marcos xung phong gởi trên 10.000 quân tham chiến bên cạnh Mỹ tại Việt Nam từ 1966 đến 1970, dù chủ yếu là trong xây dựng cơ sở hạ tầng dân dụng thời chiến. Số phận nhà độc tài này cũng như số tài sản bao trăm tỷ USD mà “đệ nhất phu nhân” nắm giữ thì bất kỳ người Việt Nam nào cũng biết đến qua các thông tin chính thức của thế giới tư bổn. Sự tham chiến trong 5 năm này đã làm gần 100 binh sĩ Phi Luật Tân thương vong.

5- Nam Dương

Như đã nói ở trên, Nam Dương cũng nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ để nhà độc tài Haji Mohamed Suharto cầm quyền tàn bạo trong 3 thập kỷ từ năm 1967 đến 1998, như một nhân tố thứ năm tích cực tiêu diệt cộng sản tại chỗ để “tứ trụ” Nam Việt – Thái Lan – Phi Luật Tân – Đại Hàn dưới sự vận hành của Mỹ  yên tâm tiêu diệt Bắc Việt.

 Part 1 (5)

Để hỗ trợ nhà độc tài quân sự chống Cộng này, Hoa Kỳ đã cung cấp viện trợ cho Nam Dương và các khoản viện trợ từ các định chế tài chính quốc tế đổ về quốc gia này cùng với sự thành lập các văn phòng của Ngân Hàng Thế Giới và các cơ quan viện trợ khác.

Tất nhiên, số phận của tên độc tài được Mỹ tích cực bảo kê này cũng dễ dàng được tìm thấy từ các nguồn thông tin chính thức trên không gian mạng.

6- Úc Đại Lợi

Part 1 (3)

Chiến Tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất mà Úc Đại Lợi tham chiến trong thế kỷ XX với 60.000 binh sĩ.

Học thuyết quân sự của Úc Đại Lợi là “Phòng Thủ Tấn Công” nghĩa là lao vào các đe dọa trên chính nguồn gốc của dọa đe chứ không chờ các đe dọa ấy thâm nhập bản địa, và đây chính là lý do Harold Hold đưa quân tham chiến tại Việt Nam trước khi chủ nghĩa cộng sản trèo lên giường ngủ của nước Úc Đại Lợi.

Sự tham chiến của Úc Đại Lợi được nhắc đến nhiều nhất qua những cái tên như Bribie. Song, ngay cả trên trang web vietnam-war.commemoration.gov.au được chính phủ Úc Đại Lợi dựng xây để tôn vinh những chiến binh Úc Đại Lợi đã hy sinh tại Nam Việt để “bảo vệ thế giới tự do” lại ghi rõ chứng tích lịch sử trớ trêu rằng trong Chiến Dịch Berbie, trên hình một chiến xa M113 của Úc Đai Lợi bị bắn hạ có dòng chữ viết bằng máu “Du Me Uc Dai Loi” mà sau đó bộ phận lưu trữ tàng thư cố dịch sang tiếng Anh và ghi chú thành “Get Fucked Australians” mà xác chết cạnh xe không mặc quân phục và không có vũ khí nên không rõ đó được viết bởi một chiến binh Cộng sản hay một dân làng khi hấp hối. “Du Me Uc Dai Loi” không thể là ngôn ngữ của các chiến binh Bắc Việt, tất nhiên.

Thất bại và thương vong trên chiến trường đã khiến Harold Holt đối mặt với làn sóng xuống đường phản đối chính phủ lên đến hơn 200.000 người tại các thành phố lớn của Úc Đại Lợi. Sự kiện này cùng với quyết định của Mỹ trong Việt Nam Hóa Chiến Tranh như cớ để Mỹ rút khỏi Việt Nam, Úc Đại Lợi lập tức dần né tránh các giao tranh trên chiến địa kể từ 1972 và rút quân. Tuy nhiên, Úc Đại Lợi vẫn duy trì một lực lượng nhất định, và chính số quân ít ỏi còn sót lại này trở thành “đồng minh duy nhất” giúp Mỹ di tản, cùng Mỹ bỏ mặc Nam Việt để tẩu thoát khỏi Việt Nam khi Sài Gòn thất thủ. Số thương vong của Úc Đại Lợi là 3.629 chiến binh.

Chiến Tranh Việt Nam đã gây nên các biến động cực lớn làm biến đổi xã hội lớn lao và chính trị sâu sắc tại Úc Đại Lợi kể từ Đệ Nhất Thế Chiến.

Sáng Chủ Nhật ngày 17-12-1967, lúc vẫn là Thủ Tướng đương nhiệm, trong chuyến đi du thuyền chơi với tình nhân cùng các con của người ấy đến Melbourne, Harold Holt bơi tại bãi biển Cheviot ưa thích của mình rồi biến mất. Dù các lực lượng hải quân và không quân hoàng gia được triển khai tìm kiếm trên diện rộng, đã không bao giờ tìm được xác của Harold Holt cho đến tận ngày nay.

7- Tân Tây Lan

Dưới sức ép của Hoa Kỳ, Keith Holyoake miễn cưỡng đưa quân Tân Tây Lan sang tham chiến ở Việt Nam năm 1965.

Part 1 (4)

Tuy khăng khăng chỉ đưa sang 3.890 quân hỗ trợ về y tế, kỹ thuật, đào tạo và cứu hộ, Tân Tây Lan vẫn chịu tổn thất 224 binh sĩ thương vong trong suốt thời gian “tham chiến” mà mục đích thuần túy chỉ để bày tỏ sự đoàn kết với Hoa Kỳ, chứ không hung hăng như Úc Đại Lợi tham chiến vì bắt chước việc Lý Thường Kiệt xua quân vào Tàu để “tiên phát chế nhân” tức ra tay trước tiên xuất phát hầu chế ngự đối phương.

Câu nói nổi tiếng đầy băn khoăn của Keith Holyoake: “Ý chí của ai sẽ thắng ở Nam Việt đây? Ý chí áp đặt của mấy người cộng sản Bắc Việt hay ý chí của Nam Việt muốn tự do biểu đạt?” cho thấy hoàn toàn vắng bóng bất kỳ một lý tưởng hay lý do hợp lý nào cho một sự dấy động can qua.

Do sự tham chiến không chút ích lợi thực tế nào của mình cho chiến trường, Tân Tây Lan buộc phải dành cho Nam Việt khoản viện trợ nho nhỏ hàng năm khoản 350.000 USD chỉ để chi cho các chương trình dạy nghề, trang bị học cụ cho Viện Đại Học Huế cùng một trường trung học kỹ thuật, xây dựng tòa nhà cho phân khoa khoa học của Viện Đại Học Sài Gòn, và cấp học bổng cho 80 học sinh sang Tân Tây Lan du học. Dưới sự thôi thúc và chỉ trích của Mỹ cho rằng Tân Tân Lan đã vi phạm hiệp ước chung, Holyoake đã cho lực lượng không quân hoàng gia sang “tham chiến”, song hầu như các “hoạt động” của lực lượng này chỉ được biết đến qua chuyến bay sơ tán Đại Sứ cùng các quan chức ngoại giao Tân Tây Lan vào tháng 4-1975 ngay trước khi Sài Gòn thất thủ.

Chiến Tranh Việt Nam đã gây nên các biến động cực lớn làm biến đổi xã hội lớn lao và chính trị sâu sắc tại Tân Tây Lan kể từ Đệ Nhất Thế Chiến. Sự tham chiến tuy chỉ ở mức tối thiểu của Tân Tây Lan cũng vẫn dấy lên những cuộc xuống đường chống chính phủ thật rầm rộ và kéo dài với quy mô lớn trên toàn quốc y như các cuộc xuống đường phản chiến ở Hoa Kỳ, đòi hỏi chính phủ phải có chính sách đối ngoại độc lập đối với Hoa Kỳ, dẫn đến các cuộc bắt bớ như khi có xuống đường chống  Nguyễn Cao Kỳ khi ông này công du Tân Tây Lan. Chưa kể các rối loạn như trận đánh lớn giữa cảnh sát và người xuống đường tại Auckland; sự cố ném bom bột, bom màu, và trứng vào chính khách Hoa Kỳ; sự bắt bớ đám đông ném pháo nổ vàoThủ Tướng khi ông này đang phát biểu; bạo động hỗn loạn giữa cảnh sát và hàng trăm người “biểu tình” khi Phó Tổng Thống Mỹ Spiro Agnew đến Auckland năm 1970; các cuộc “tổng biểu tình” trên toàn quốc năm 1971 đòi Tân Tây Lan rút ngay lập tức quân đội khỏi Việt Nam; dân chúng đặt vòng hoa tưởng niệm “các nạn nhân của chế độ Phát-xít ở Việt Nam” tức nạn nhân của Nguyễn Văn Thiệu; và sự việc các cựu chiến binh mạnh mẽ quyết liệt buộc tội chính phủ đã đẩy họ vào tình trạng bị phơi nhiễm trước chất độc màu da cam di họa cho bản thân họ và gia đình họ, v.v. (Năm 1984, các nhà sản xuất chất độc màu da cam của Mỹ đã thỏa thuận bồi thường ngoài tòa án cho các cựu chiến binh Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan.)

IV) Chân Lý Giản Đơn

1) Tôn Ti Trật Tự: Kế Thứ 37 của Hoa Kỳ lẽ ra là Kế Thứ 36 của Tôn Võ Binh Pháp, còn Kế Thứ 36 của Tôn Võ Binh Pháp mới nên là kế thứ 37 cuối cùng, nghĩa là kế tẩu thoát bỏ của chạy lấy người chỉ nên áp dụng sau khi thấy đám sài lang do mình dưỡng nuôi trở nên vô dụng. Việt Nam có thể đóng góp thêm Kế Thứ 38 tức Cầu Tài Kế, theo đó sau khi áp dụng Tẩu Thoát Kế hãy quay lại cười giả lả cầu tài coi như không có chuyện gì xảy ra để bắt tay đối thủ đối đầu biến thành đối tác đối trọng.

2) Cái Lợi Của Nhà Độc Tài Do Mỹ Bảo Kê:

a- Đất nước họ cường thịnh nhờ hàng tỷ USD Mỹ rót vào viện trợ, và tất cả đều “hóa rồng”.

b- Người dân nước họ rút được bài học xương máu để từ đó tự động có thiện cảm với Việt Nam thống nhất hơn, dẫn đến các thương thảo hòa hoản hợp tác xây dựng với đất nước mà con em họ đã từng “hóa rồ” sau khi đến đấy gây ra những cuộc thảm sát kinh hoàng của nhân loại.

c- Góp phần tôn vinh chính nghĩa của Bắc Việt.

3) Cái Hại Của Nhà Độc Tài Do Mỹ Bảo Kê:

a- Tất cả các nhà độc tài tàn bạo do Mỹ dựng nên và bảo kê đều bị tiêu diệt bởi chính lực lượng dự bị của Mỹ.

b- Tất cả các nước của họ đều hình thành các thế lực phong trào dân sự hùng mạnh chống Mỹ, chống Chiến Tranh Việt Nam, phản chiến. Tất cả làm Mỹ và Âu Tây suy yếu.

c- Từ sự hăng say chống Chính phủ trong Chiến Tranh Việt Nam, người dân Mỹ trở nên ngày càng nghiện với việc chống chính phủ hơn, ngày càng kém đoàn kết hơn, và tất cả làm nước Mỹ loạn lạc hơn.

d) Sự cướp giật chiếm hữu trắng trợn từ ngữ “độc tài” để gán vào “phe xã hội chủ nghĩa” đã khiến những kẻ mông muội mê muội có cơ hội hí ha hí hửng để lảm nhảm lép nhép về cái gọi là “độc tài đảng trị” của Cộng sản Việt Nam, vốn là thứ chữ nghĩa mà tất cả những nhà đại tư bản thế giới khi nghe qua luôn ngỡ là hoặc đang chưởi xéo chính phủ của chính các nhà đại tư bản ấy hoặc đang trong cơn thác loạn thần kinh.

e) Sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan trên toàn thế giới:

Screen Shot 07-19-16 at 08.05 PM

4) Hoa Kỳ trở thành Nhà Nước Cảnh Sát chà đạp dân chủ nước Mỹ:

Part 1 (12)

5) Thiết Kế Bàn Ghế: Đừng bao giờ chế tạo ra chiếc bàn trên 7 chân cao thấp khác nhau, chất lượng khác nhau, và bằng nguyên vật liệu khác nhau, vì bản thân mặt bàn sẽ đảo chao nghiêng ngửa và rơi xuống.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Kỳ sau: Tứ Trụ Chống Nhất Trụ Đệ Tam Thập Thất Kế – Phần 2

Both comments and trackbacks are currently closed.