Những Nội Dung Duy Nhất Đáng Quan Tâm Cho Việc “Cải Tiến” Tiếng Việt
Hoàng Hữu Phước, MIB
29-12-2017
A- Phân Định Phạm Vi: Đừng Lẫn Lộn
Những dẫn dắt đẩy sự việc tiến đến các quái gỡ trong các cái gọi là “công bố” liên quan đến hoặc “Sử học” hoặc “Ngôn ngữ học” hay “Ngôn ngữ tiếng Việt học” bao gồm – song không chỉ có bấy nhiêu đây – nhà công bố (a) toàn là các giáo sư tiến sĩ chốn lô-cốt ngà chưa bao giờ biết thế nào là tháp ngà và chưa bao giờ trong đời đã từng tiến hành làm luận án nghiên cứu kể cả cái gọi là luận văn tốt nghiệp theo bài bản thực hành tốt nhất của Âu Mỹ về kỹ thuật, hình thức, và nội dung; (b) toàn theo bản sắc đặc trưng thuần Việt tối kỵ trong sinh hoạt hàn lâm thế giới: ta là số một nên không bao giờ chịu tìm đọc các tài liệu của người khác dù phải mày mò rị mọ mò mẫm một mình vùi trọc lóc đầu nghiên cứu trớt quớt suốt 40 năm; và (c) toàn theo công thức cố định của những nhà ngự trị lô-cốt ngà: khi nghỉ hưu chỉ phải làm một trong các việc quan trọng để lưu truyền hậu thế gồm “công bố” công trình nghiên cứu đầu tiên và cuối cùng đã tự tiến hành 40 năm trước đó, tham gia bầy đàn hùa nhau ký tên kiến nghị Đảng và Nhà Nước làm hay không làm cái gì đó, và “độc lập tác chiến” không đứng chung tên với bất kỳ tên lô-cốt ngà nào khác đối với lĩnh vực dân chủ-nhân quyền-tù nhân lương tâm-đa đảng-đa nguyên-tam quyền phân lập-vân vân và vân vân tức những nội dung lạ hoắc chưa bao giờ nghĩ đến trong suốt 40 năm nghiên cứu việc riêng.
Chính bởi chưa từng tiến hành làm luận án nghiên cứu kể cả cái gọi là luận văn tốt nghiệp theo bài bản thực hành tốt nhất của Âu Mỹ về kỹ thuật, hình thức, và nội dung hàn lâm, nên mới có mấy kẻ hùng hổ tuyên bố “Sử không có vùng cấm”, hoặc “cải tiến Tiếng Việt”, v.v. toàn bá láp tầm phảo.
Chính bởi không bao giờ chịu tìm đọc các tài liệu của người khác dù phải mày mò rị mọ mò mẫm một mình vùi trọc lóc đầu nghiên cứu trớt quớt suốt 40 năm nên “tiến sĩ” Bùi Hiền không biết rằng đã có “nhà nghiên cứu” duy nhất về ngôn ngữ tiếng Việt là “thạc sĩ” Hoàng Hữu Phước nêu lên vấn đề dấu gạch nối và sau đó là vấn đề luật hóa bảng chữ cái mới của chữ viết tiếng Việt tức hai nội dung duy nhất có liên quan đến “cải tiến”.
Do dốt đặc về ngoại ngữ mà vẫn được Đảng và Nhà Nước phân công lãnh đạo đại học ngoại ngữ khiến nước nhà chưa thể có sinh viên ngoại ngữ tốt nghiệp viết/nói ngoại ngữ thượng đẳng, “Tiến Sĩ” Bùi Hiền đã hoàn toàn không biết các nội dung mang tính phân định sau để không phí hoài 40 năm lẽ ra đã dành cho phục vụ và phụng sự đất nước dân tộc ra hồn:
1) Sinh Ngữ:
Một ngôn ngữ sống luôn bao trùm các phạm trù tồn tại, phát triển, điều chỉnh biến hình, hấp thụ, đào thải bộ phận, thay thế bộ phận. Đó là chân lý muôn đời ở muôn nơi. Không biết chân lý này thì không có quyền bất kỳ để “công bố” ngay cả một “công trình cá nhân” về ngôn ngữ.
2) Đổi Thay Hình Thức:
Đổi thay hình thức là một đổi thay toàn diện về hình thức tức về ngôn ngữ viết. Chỉ về ngôn ngữ viết.
Ngôn ngữ tiếng Việt tất nhiên có những phạm trù chung của một sinh ngữ. Tuy nói chung ngôn ngữ nói tiếng Việt tồn tại dài lâu, ngôn ngữ viết tiếng Việt đã có đổi thay toàn diện triệt để và dứt khoát khi xuất hiện cách sử dụng mẫu tự alphabet để thể hiện ra chữ viết mới của ngôn ngữ nói hiện hành của người Việt. Đó là thay đổi triệt để chứ không là “cải tiến”. Không hiểu nội hàm của từ ngữ “cải tiến” trong ngôn ngữ thì đừng nói đến “nghiên cứu” ngôn ngữ quái gì cả mà đem ra công với bố.
Việt Nam đã có quá nhiều những kỳ cải cách giáo dục, và cách viết – chứ không phải chữ viết – các mẫu tự tiếng Việt đã bao phen thay đổi, và đa số các lần đều bị phụ huynh càm ràm chê bai cho rằng chữ trông trọc lóc hoặc đứng không vững vì mất đế trụ, v.v. Đó là cải tiến.
Trong tiến trình hoàn thiện hóa, tiếng Việt (tức “chữ Quốc ngữ”) cũng đã có những thay đổi nhất định không mang tính hệ thống về chữ viết. Những thí dụ cụ thể nhất là từ câu viết Lạy Đức Chúa B’lời biến thành Lạy Đức Chúa Trời, do ngôn ngữ nói phát âm “trời” thì ắt nên được viết sao cho có chữ t và r thay vì chế ra ký hiệu b’l.
Ngoài ra, việc đổi thay hình thức ngoài dạng triệt để như tiếng Việt từ chữ tượng hình của Hán và Nôm dứt khoát sang mẫu tự alphabet, còn có dạng đổi thay hình thức bổ sung như tiếng Hàn, tiếng Nhật, nghĩa là cùng với chữ viết truyền thống Nhật/Hàn được dùng hàng ngày trong toàn xã hội nước họ, còn có chữ viết theo mẫu tự alphabet để ghi lại theo phiên âm ngôn ngữ nói, nên thê giới mới biết đến các từ như Yamamoto, Nagasaki, hay giám khảo Jay Park của Asia’s Got Talent 2017.
Chưa kể còn có dạng đổi thay hình thức cũng triệt để nhưng không do mô phỏng hệ chữ viết ngoại lai, như từ chữ viết tiếng Anh cổ thời thiên anh hùng ca Beowulf sang chữ viết tiếng Anh ngày nay, từ chữ viết tiếng Nga cổ sang tiếng Nga thời nay, v.v.
Bùi Hiền đã “công bố” cái nhằm thay đổi triệt để chữ viết tiếng Việt. Việc thay đổi triệt để tiếng Việt chỉ xảy ra có một lần khi mẫu tự alphabet được áp dụng, và được cải tiến dần cho đến tiếng Việt hiện nay. Cần ghi nhớ rằng Chữ Nôm không là một thay đổi triệt để tiếng Việt mà chỉ là một thay đổi bổ sung do luôn có hai thứ song song tồn tại trong xã hội là Chữ Hán và Chữ Nôm mà các nhà tinh hoa trí thức đặc thù Việt luôn thể hiện thói sính ngoại và tật chống chính quyền bằng cách tỉnh bơ sáng tác thơ văn bằng chữ Hán và miệt thị chữ Nôm, gọi nó là “mách qué”.
Khi Việt thay đổi triệt để chữ viết tiếng Việt đã nhằm sử dụng hệ thống mẫu tự quen thuộc đối với đa số các quốc gia, và dù ý chí ban đầu chỉ là để các giáo sĩ giúp dân chúng thuộc địa có thể đọc được bản dịch Thánh Kinh Cơ Đốc, thì nói chung ai đó có thể nhảy cẩng lên mà khoe khoang rằng cái sự “hội nhập” và “toàn cầu hóa” đao to búa lớn ngày nay hóa ra đã khởi sự từ xưa lắm ở nước tôi đấy nhé!
Nay Bùi Hiền đề xuất ý kiến thay đổi triệt để chữ viết tiếng Việt mà theo ông ta nhằm (a) tiết kiệm và (b) giúp thế giới học tiếng Việt dễ hơn.
Vĩ đại thay! Giá như Bùi Hiền đừng ỏn ẻn mà tự tin “công bố” tư duy ấy cách nay 40 năm thì đã nhận tài trợ khủng khiếp của Nhà Nước để đẩy nhanh nghiên cứu đem ra thực hiện thì có phải nước nhà đã phát triển sớm nửa thế kỷ cũng như đã tiết kiệm biết bao giấy mực giúp nhân loại khỏi phải lâm cảnh biến đổi khí hậu thế này!
3) Cải Tiến:
Như vậy tóm lại, Bùi Hiền muốn thay đổi toàn diện triệt để chữ viết Tiếng Việt chứ không phải cải tiến nó. Có phân định rạch ròi như vậy mới có thể phê bình hay phê phán Bùi Hiền. Và khi đã phân tích để khẳng định cái đề xuất ấy là thay đổi toàn diện triệt để chữ viết Tiếng Việt thì có thể khẳng định đó là đề xuất ngu xuẩn, trá ngụy, do không dính dáng gì đến “tiết kiệm” hay “dễ học” cả. “Tiết kiệm” và “giúp người nước ngoài dễ học” không bao giờ là lý do cho bất kỳ một đại cuộc đầy tốn kém mà người ở bất kỳ quốc gia nào lại ngu đần đến mức thực hiện cả.
“Cải tiến” tự thân ngữ nghĩa không có nội hàm bao trùm mà chỉ là bộ phận, thí dụ như cải tiến hệ thống phanh xe ô tô (không phải chế xe mới), cải tiến mẫu mã (không phải chế hàng hóa khác từ bên ngoài đến bên trong), cải tiến hệ thống quạt (không phải chế hệ thống khác).
Tất cả những ai sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn cùng thời với tác giả bài viết này ắt còn nhớ vào những năm 1960 của thế kỷ trước có xuất hiện quyển từ điển Anh-Anh hoặc Anh-Pháp dày khoảng 1,5cm, bìa màu vàng tươi, gáy lò xo xoắn, nhập khẩu vào Việt Nam, trong đó đã dùng các con số thay cho cách ghi phiên âm thông thường. Đó là một “thăng hoa” cá nhân, không là một “công bố cải tiến”, và nó đã tự hủy cứ như chưa từng được đề ra.
Tất cả những ai giảng dạy Anh Văn chính quy đại học vào đầu những năm 1980 của thế kỷ trước cùng thời với tác giả bài viết này ắt còn nhớ đã có lúc từ điển Anh-Anh Oxford đã thay đổi cách ghi phiên âm (thí dụ a âm ngắn và a: âm dài thành a âm dài và A âm ngắn, v.v.) và bỏ tất cả các dấu chấm sau Mr và Mrs, khiến toàn ban Anh Văn ở các đại học cao đẳng đều tuân theo răm rắp, mà chỉ có tác giả bài viết này tuyên bố với sinh viên rằng đó là sự ngu xuẩn của Oxford, rằng mọi sự sẽ trở lại như cũ, và rằng bất kể các thầy cô khác đều gạch bỏ đỏ lòm trừ điểm các chỗ “sai vì không giống Oxford” trên bài viết của học trò thì sinh viên khi viết luận văn vào giờ dạy của tôi hãy cứ duy trì viết Mr. và Mrs. Nghĩa là có dấu chấm. Thực tế lịch sử sau đó đã chứng minh: Oxford sau này ấn hành từ điển đã trở lại cách ghi phiên âm truyền thống, còn toàn thế giới hiện nay không có bất kỳ ai không dùng Mr. và Mrs., biến Mr và Mrs thành trò tên đại ngốc Hornby ở Đại Học Oxford. Đó là một “thăng hoa” cá nhân, không là một “công bố cải tiến”, và nó đã cứ như chưa từng được đề ra trong thế giới hàn lâm nếu như hôm nay không được Hoàng Hữu Phước nhắc đến.
Như vậy, chỉ có một động tác duy nhất đúng của nhà hàn lâm bẩm sinh khi gặp phải “công trình” của kẻ không phân biệt được ý nghĩa của “cải tiến”: vất xấp công trình đó ngay vào sọt rác.
4) Tiết Kiệm:
Bùi Hiền lạm ngôn về “tiết kiệm.” Mặc xác chuyện y phí bỏ 40 năm của y. Nhưng phải nêu lên sự thật rằng nếu chẳng may lãnh đạo nước nhà ngu đột xuất cho đem thực hiện cái ý tưởng của Bùi Hiền thì sự phí phạm sẽ cực kỳ khủng khiếp về thời gian toàn quốc và chi phí …giáo dục toàn dân cũng như chi phí đổi tất cả các cột mốc biên giới, các bảng tên bằng kim loại quý đính trên dinh thự các đại sứ quán và cơ quan ngoại giao của Việt Nam, đại cuộc thay đổi căn cước cùng các loại giấy tờ công chứng, v.v. và v.v., tức cuộc rung chuyển toàn cầu tại bất cứ xó xỉnh nào có chữ Việt Nam.
B- Cải Tiến Chữ Viết Tiếng Việt
Như vậy, với tất cả những gì mà trong rất rất nhiều năm qua tác giả bài viết này đã liên tục nêu những vấn đề của tiếng Việt, có thể tóm tắt tập trung trong phần B này những cốt lõi duy nhất thực sự có liên quan đến chữ viết tiếng Việt ngày nay cần phải quan tâm nghiên cứu.
Nhưng trước hết và trên hết phải xây dựng 5 nền tảng lý luận mặc định khẳng định và bất di dịch như sau:
a) Tiếng Việt đã qua giai đoạn hình thành, điều chỉnh, phát triển.
b) Tiếng Việt đang trong tiến trình bình thường của tất cả các ngôn ngữ hiện đang tồn tại trên thế giới: tồn tại, thải loại bớt do yêu cầu thích nghi theo thời đại, tăng mới vốn từ ngữ qua sáng tạo thêm/biến nghĩa/du nhập/vay mượn, v.v. để tiếp tục trụ vững, tiếp tục phát triển.
c) Tiếng Việt cần sang giai đoạn “hậu kiểm” về văn phạm để chuẩn hóa logic tương hợp với hình thái văn phạm nền của ngôn ngữ quốc tế chẳng hạn như của tiếng Anh, giúp tiếng Việt trở nên dễ học đối với người nước khác, tạo điều kiên cho tiếng Việt lan tỏa toàn cầu.
d) Tiếng Việt đang vướng vào lập luận nhóp nhép chưa mõi mồm của thiên hạ quyền lực về mấy cái như là “hội nhập”, “toàn cầu hóa”, “hiện đại hóa”, và “hợp lý hóa”, nên nhất thiết cần có những bổ sung rất rất logic mà tác giả bài viết này đã từng nêu lên rất rất nhiều lần trong các bài viết trước đây và được tổng kết trong các phần ngay dưới đây.
e) Tiếng Việt hoàn toàn không có lý do gì để cần “cải tiến”, vì “cải tiến” cách nói tức cách phát âm là chuyện hoàn toàn điên rồ chưa từng xảy ra trên toàn thế giới, còn “cải tiến” cách thể hiện bằng chữ viết chỉ là những ý tưởng sở dĩ có là do có tự do ngôn luận hoặc do Bộ Giáo Dục Việt Nam có những tên lô-cốt ngà chẳng biết làm gì ngoài xé vụn ngân sách quốc gia, chứ không từ một nhu cầu đúng đắn, thực tế, có thật, hữu lý, nào cả.
Tuy nhiên, xem ra vẫn có người quan tâm đến “cải tiến tiếng Việt”, và do số lượng đông khủng khiếp của bọn lô-cốt ngà đặt ra vấn đề đe dọa sự an nguy đến đôi tai của dân chúng khiến tác giả bài viết này nhất thiết phải trên nền lý luận mặc định về ngôn ngữ tiếng Việt ở phân đoạn c và d nêu trên mà nói rõ rằng tiếng Việt chỉ cần hoàn thiện bằng những cách sau đây và chỉ bằng những cách sau đây mà thôi chứ vĩnh viễn không có bất kỳ nhu cầu “cải tiến” nào khác:
1- Văn Phạm Tiếng Việt
Lý do vì sao phải “cải tiến” cách xét đến hình thức của văn phạm tiếng Việt đặc biệt đối với các khái niệm phạm trù “câu”, “mệnh đề”, và “nhóm từ” , đã được tác giả bài viết này nêu rõ trong tham luận Giao Thoa Ngôn Ngữ Việt-Anh Và Thực Chất Vấn Đề Giữ Gìn Sự Trong Sáng Của Tiếng Việt mà độc giả có thể tham khảo trong đó.
2- Bảng Mẫu Tự 33 Chữ Cái Tiếng Việt
Tất nhiên ai cũng biết bảng mẫu tự tiếng Việt bao gồm 29 mẫu tự, gồm:
a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v x y
(Ghi chú: đã có sự tự tung tự tác của những người ăn không ngồi rồi khi xếp mẫu tự Y ngay sau mẫu tự I như muốn khoe tài rằng “ta đây đã nhận ra sự phát âm gần giống nhau giữa Y và I nên xếp chúng đứng gần nhau”. Đó không là “phát kiến” mà là sự ngu xuẩn, hủy phá cái nền tương đồng giữa các ngôn ngữ mà theo đó các ngôn ngữ khác nhau có thể dựa vào nhau trên cở sở thứ tự trước sau nhằm phục vụ sự dễ nhớ vốn là một nét quan trọng của yếu tố sư phạm nơi người muốn học.)
Nhưng để hiện đại hóa và hợp lý hóa tiếng Việt trong tình hình thực tế sử dụng mới, nhất thiết phải quy định lại bảng mẫu tự tiếng Việt mới bao gồm thêm 4 mẫu tự loại “du nhập” sau để thành tổng cộng 33 chữ cái:
f j w z
Lý do của việc nên luật hóa sự nhìn nhận những chữ cái này dưới tên gọi Mẫu Tự Tiếng Việt Du Nhập, gồm:
a) Không thể chối cãi rằng trong thời gian nhiều chục năm qua, những chữ cái của tiếng Anh đã được sử dụng trong các văn bản pháp quy ở Việt Nam, chẳng hạn mẫu tự W đã được dùng để thay thế chữ cái Ư trong chữ viết tắt TW của TRUNG ƯƠNG do khó thể sử dụng chữ tắt TƯ khi văn bản đó được dịch sang tiếng Anh (đồng thời xét về hình dạng thì W cũng tương tự Ư) và thậm chí một công dân Việt Nam Cộng Hòa còn mang tên trên căn cước là Wòng Chấn Sềnh. Ngoài ra, những từ như “zero” hoặc cách nói “từ A đến Z” hay việc sử dụng F trên báo chí như đối với FIFA hay IMF hoặc Festival v.v. (chưa kể ai cũng biết chữ F hay được Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng thay thế cho chữ PH khi viết nháp các bản thảo) đã trở nên rất quen thuộc với người dân Việt. Còn “Made in Japan” thì xem như tuyệt đại đa số người tiêu dùng Việt đều biết nó là cái gì, tượng trưng cho chất lượng sản phẩm ra sao.
b) Lý do thêm f j w z từ mẫu tự tiếng Anh mà không là của các ngôn ngữ khác hoàn toàn không phát xuất từ bất kỳ thiên kiến hay định kiến nào đối với các ngoại ngữ khác. Tiếng Anh được lựa chọn ngoài sự thật đó là ngôn ngữ có sự thuận lợi trong sử dụng toàn cầu còn có lý do bảng chữ cái tiếng Anh đã hiện diện đầy đủtrong bảng chữ cái tiếng Việt, chỉ thiếu mỗi 4 chữ cái còn lại như F, J, W và Z mà cả 4 đều không xa lạ với tuyệt đại đa số người Việt. Trong khi đó tên tiếng Pháp hay Đức có những mẫu tự rất khó thể hiện trên bàn phím máy chữ hành chính thông thường, chẳng hạn như
ç ß œ æ î û ä ï ë ö ü ÿ
c) Số lượng thêm mới chỉ có 4, khó thể nói sẽ gây khó khăn về phương diện ứng dụng ngôn ngữ Việt nói chung.
d) Việc gia tăng 4 mẫu tự sẽ không bao giờ có thể bị phản biện chống đối vì với thực tế Con Cầy với Kon Tum (C có vẻ tương đồng về âm với K và Q nhưng có thể cho ra cách luyến láy khác nhau giữa Con và Kon dù Kon không là tiếng thuần Việt) và Bánh Bao với Pánh Pao hay Ngầu Pín ( B có vẻ tương đồng về âm với P nhưng có thể cho ra cách luyến láy khác nhau giữa Bánh và Pánh với Pánh có âm bật nổ hơn dù Pánh không là tiếng thuần Việt mà chỉ là cách sử dụng cho ám chỉ cách phát âm nặng hơn bởi người gốc Hoa), việc ghép đôi mức tương đồng về âm giữa PH và F, W và Q, cũng như bộ D và J với Z đều có thể biện luận được dễ dàng.
3- Bảng 6 Dấu Thanh Dùng Trong Chữ Viết Tiếng Việt
Đây chỉ là phần được ghi ra như một khẳng định về số lượng chính xác của dấu thanh trong tiếng Việt mà nội dung này cũng nhất thiết cần được ghi rõ trong sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học trong kỳ xài tiền tiếp theo của Bộ Giáo Dục
a- dấu huyền: Hoàng, Trường
b- dấu sắc: Trúc, Thúy
c- dấu hỏi: Thủy, Hải
d- dấu ngã: Diễm, Vũ
e- dấu nặng: Thạch, Trọng
f- không dấu: Linh, Trâm
4- Bảng 2 Dấu Hình Dùng Trong Tiếng Việt:
Dấu Hình là những dấu luôn có trong thực tế đời sống ở Việt Nam nhưng chưa hề được đặt tên hay được công nhận.
Tiếng Việt có hai dấu hình như sau:
a- Dấu gạch nối:
Dấu gạch nối như trong Hoàng-Hữu-Phước, Hoàng Hữu-Phước, Đinh Thị Mai-Trâm, Lý Quỳnh-Hoa, Lâm Mỵ-Tiên, Phan-Nguyễn Tường-Uyên, Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam, v.v., là kiểu được sử dụng như trên báo chí và các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, Thánh Kinh, căn cước, khai sinh, công văn, v.v. tại Việt Nam từ thời tiền chiến. Ngay sau “The Fall of Saigon” tức “Sài Gòn Thất Thủ” theo cách gọi đắng cay của người Mỹ thì dấu gạch nối hoàn toàn biến mất trong báo chí cách mạng và tất cả các sách giáo khoa từ Miền Bắc gởi vào cho Miền Nam khai giảng năm học mới của đất nước thống nhất. Tầm quan trọng của dấu gạch nối trong xác quyết ngữ nghĩa từ tiếng Việt đã được phân tích nêu rõ trong bài Vũ Khí Tối Thượng Của Tiếng Việt Cho Thời Kỹ Thuật Số: Hồi Ức Về Một Sự Thật Chẳng Còn Người Việt Nam Nào Trên Thế Giới Còn Nhớ Hay Biết Đến. Độc giả có thể tham khảo chi tiết tại đấy.
b- Dấu phẩy trên:
Có nhiều công dân Việt Nam người sắc tộc thiểu số đang mang tên K’Rấp, R’Lấp trên chứng minh nhân dân, và có nhiều địa danh ở Việt Nam như Tỉnh Đắk Lắk, Tỉnh Bắc Kạn, Huyện Đăk R’lấp, Huyện Đăk Glong, v.v. , trong khi tất cả những tên riêng này tuy đang tồn tại ngay tại Việt Nam nhưng không theo cấu trúc luôn có của tiếng Việt chuẩn trong sách văn phạm đã và đang được sử dụng tại trường học Việt Nam (lẽ ra nếu không được liệt kê chấp nhận trong gia đình tiếng Việt thì buộc phải được “Việt Hóa” thành Ông Cơ Rấp, Ông Cơ Rá, Tỉnh Đắc Lắc, Tỉnh Bắc Cạn, Huyện Đắc Rờ Lấp, Huyện Đắc Gờ Long cho “đúng là tiếng Việt”).
Như vậy, nhất thiết phải luật hóa việc công nhận dấu phẩy trên vào tiếng Việt. Đây là dựa vào thực tế đã và đang sử dụng tại Việt Nam, trong khi dấu phẩy trên cũng là dấu hình đang tồn tại trong rất nhiều ngôn ngũ chính trên thế giới. Cần ghi nhớ rằng một khi đã luật hóa thì toàn dân Việt Nam đều có quyền sử dụng để đặt tên cho các con của mình.
C- Ghi Chú Bản Quyền
Như đã nêu ở phần nhập đề về tật xấu cố hữu của người Việt trong vinh bản thân thì muốn bản thân riêng hưởng, còn nhục bản thân lại muốn san sẻ phát phân cho toàn thiên hạ chịu phụ, dẫn đến việc ngư dân dấu biệt vị trí tàu cá và ngư trường của mình khiến khi gặp nạn thì đất liền không biết đâu mà ra cứu còn khi gặp hên thắng lớn thì bị nước ngoài không chịu mua do thiếu tài liệu xác nhận ngư trường, còn các vị lô-cốt ngà thì có vị chỉ kiếm đọc tài liệu của sinh viên vô danh tiểu tốt Lào ở bên Lào để yên tâm thế giới nào ai biết đến kẻ tiểu tốt vô danh nên mình tha hồ lấy làm luận văn tiến sĩ Việt Nam tại Việt Nam của mình cho tuyệt đối an toàn. Kỳ dư, khi có thời gian dài những 40 năm ở không nghiên cứu gì đó thì họ cũng chẳng hơi đâu tìm đọc các tài liệu của người khác vì sợ rủi chẳng may mà công trình mình “tinh anh phát tiết ra ngoài” có ngày thành kiệt tác, nên nếu để có gì dính dáng đến ý tưởng của “mấy thằng khác” thì tụi nó đòi hưởng chung danh tác quyền nghiên cứu thì uổng quá, thà mày mò rị mọ mò mẫm một mình vùi trọc lóc đầu nghiên cứu trớt quớt suốt 40 năm cũng không sao.
Vì thấy thảm thương thay cho các đấng lô-cốt ngà, tác giả bài viết này nhân đây tuyên bố toàn bộ các chi tiết trong bài viết này và các bài viết nơi các đường link có liên quan đều được tác giả cho bất kỳ ai trong thiên hạ tùy nghi sử dụng để nghiên cứu hình thành luận án luận văn bất kỳ, không cần xin phép, không cần thông báo, chẳng cần chia chác tiền bạc bất kỳ.
Lý do của sự “hào phóng” trên là tác giả ở chòi ngà chứ không ở tháp ngà hải ngoại hay lô-cốt ngà nội địa nên không được Nhà Nước quan tâm lắng nghe, nên càng rất cần các vị lô-cốt ngà sử dụng quyền uy nêu lên ắt Nhà Nước đương nhiên lắng nghe tôn bái, cho đem áp dụng, nhờ đó quốc gia thái bình, quốc dân an lạc, khu vực hân hoan, châu lục yên ắng, thế giới hoan ca, thì biết đâu bổn thân sẽ được ké phần nào phước đức chăng.
Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế
Tài liệu tham khảo:
Tham Luận của Hoàng Hữu Phước tại Hội Thảo Khoa Học Toàn Quốc 18/6/2010: Giao Thoa Ngôn Ngữ Việt-Anh Và Thực Chất Vấn Đề Giữ Gìn Sự Trong Sáng Của Tiếng Việt
Người Việt Tên Tiếng Anh: Tại Sao Không? 26-9-2012
You must be logged in to post a comment.