Song Ngữ Việt & Anh (Bilingual: Vietnamese & English)
Hoàng Hữu Phước, MIB
Hoàng Hữu Phước, MIB
Tháng 11 năm 2011 ngay khi tôi phát biểu thành công vang dội ngăn chặn được việc hấp ta hấp tấp đề ra dự án Luật Biểu Tình, bọn nhà báo hai mang trong nước thì dựng ngay chuyện tôi mắng người Việt Nam dân trí thấp để kích động đám côn đồ gởi tin nhắn đe dọa giết tôi, còn bọn hải ngoại chống Cộng dựng ngay chuyện một thằng mất dạy bá láp tự xưng là Thầy của tôi nghe tin tôi chống Luật Biểu Tình nên viết ngay bài trường thiên nói tôi đã từng là đứa học trò ngổ ngáo chuyên làm điều xằng bậy. Đại biểu Trần Du Lịch cho tôi hay tin này, còn Đại biểu Đặng Thành Tâm đưa tôi xem điện thoại di động mở web về bài của thằng “Thầy” ấy. Tôi đều dùng một câu duy nhất để trả lời hai vị ấy biết đó là “thằng mất dạy”. Như bất kỳ đấng trưởng thượng khả kính nào nắm trong tay quyền lực tối thượng của chính đạo chính tâm chính nghĩa, tôi lẳng lặng không đòi báo Tuổi Trẻ phải xin lỗi tôi công khai chuyện đã giật tít tầm bậy tầm bạ “Dân Trí Thấp” vì tôi muốn ban cho kẻ duy nhất chịu trách nhiệm về lỗi lầm không thể nào được tha thứ này là Tổng Biên Tập một ân huệ để tự đứng ra xin lỗi tôi (rất tiếc là Tổng Biên Tập đã đại ngu đánh mất cơ hội bằng vàng ấy, đã vậy sau đó còn để yên cho bọn hai mang tấn công tôi tiếp nhân vụ Tứ Đại Ngu, khiến tôi quyết định từ nay sẽ ra sức can ngăn phản đối Thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh nếu có bất kỳ sự cất nhắc nào đối với vị cựu Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ sau khi hắn đã bị triệu khẩn cấp về Thành Ủy, bỏ Tuổi Trẻ như rắn không đầu), đồng thời tôi cho đăng bài viết bằng tiếng Việt về Thầy Nguyễn Quang Tô trên Emotino.com ngày 25-11-2011, xem như buộc lòng phải tung bửu bối mà tôi ngỡ sẽ dấu mãi trong hành trang một đời người. Ngay sau đó, tôi đăng thêm bài tiếng Việt về Cô Trương Tuyết Anh mà năm 2005 tôi đã đăng bản tiếng Anh trên Yahoo!3600 . Và tôi cũng chuyển tải sang tiếng Việt bài viết về Thầy Lê Văn Diệm đăng ngay sau khi bọn phản động đánh phá trang web Emotino.com. Nay tôi xin đăng lại bài viết ấy như dịp Ngày Xuân Tưởng Nhớ Đến Ơn Thầy Cô, để bạn đọc khắp nơi biết tôi đã là sinh viên như thế nào và được thọ giáo với những bậc Thầy Cô đạo cao đức trọng tuyệt diệu ra sao.
Tôi Và Thầy Lê Văn Diệm
Hoàng Hữu Phước, MIB
Tiến sĩ Lê Văn Diệm là Giảng sư Văn Chương Mỹ tại Đại Học Huế và Đại Học Văn Khoa thuộc Viện Đại Học Sài Gòn trước 1975 và tại Đại Học Văn Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh sau 1975, ngôi trường sau này được đặt lại với cái tên xoàng xĩnh đáng thương hại “Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn” theo kiểu bình dân mà những người Việt Nam mới sính dùng trần trụi, chẳng hạn Cửa Hàng Ăn Uống (thay vì Quán Ăn, Nhà Hàng, Snackbar hay Restaurant) hay Đại Học Mở Bán Công (thay vì dùng một cái tên quý phái như Đại Học Mạc Đĩnh Chi hay một cái tên trung dung như Đại Học Trân Châu, v.v.). Thầy còn là giảng sư thỉnh giảng bộ môn Văn Chương Anh Mỹ tại các đại học Hoa Kỳ trước 1975. Năm 1996, Thầy được Đại Học Boston Hoa Kỳ mời sang Mỹ trong 10 tháng để biên soạn và hiệu đính giáo trình giảng dạy Văn Học Anh Mỹ.
Trong vòng kiềm tỏa đầy hỗn loạn của một môi trường trong đó hầu hết các cán bộ giảng dạy bước chân lên sân khấu giảng đường hoặc chỉ để viết tháo dăm ba chữ gì đấy cho bài tập Anh Văn lên bảng rồi bỏ ra đứng tựa lưng vào cửa, mắt lim dim mơ mơ màng màng thả hồn phiêu lãng theo những kế hoạch vĩ đại đào thoát khỏi quê hương để trở thành hạng mà giới truyền thông phương Tây chế tác tên gọi “thuyền nhân” không chút vẻ vang; hoặc để đột nhiên cầm micro nói to tuôn ra lửa bỏng và suối lệ của lòng ái quốc mang hơi cách mạng chống cuộc xâm lăng của bè lũ Bắc Kinh cuối những năm tám mươi và hăng hái khóc lóc xung phong đòi ra chiến trận dù đang ở lứa tuổi năm mươi cộng; Giảng sư Diệm vẫn giữ cốt cách quý phái, thực hiện thiên chức nhà giáo của mình với đầy đủ tính chuyên nghiệp ở mức độ cực cao tuyệt hảo: trong khi các vị khác một cách vô hồn cào cấu lên bài làm của sinh viên với những tick và tick và tick – tức ngoáy đánh dấu những ký hiệu V chứng tỏ ta đây đã đọc đến đây đến đấy rồi cứ đếm các dấu tick đỏ dơ dáy đó mà cho điểm, tất nhiên bài có điểm cao là bài ít có mấy ký hiệu bùa chú đỏ ấy – thì Giảng sư Diệm cần cù chi li bút phê viết bằng tiếng Anh những lời phê bình sâu sắc, những chỉnh sửa, những đề nghị, bất kể đó là chỗ sai (sửa lại cho đúng) hay chỗ đúng (vẫn sửa lại cho tuyệt vời hơn), ngõ hầu giúp sinh viên hoàn thiện kỹ năng viết luận văn Anh, và bài viết hay nhất, được Thầy cho điểm cao nhất (AA+) là bài nào “bị” Thầy viết đỏ lòm chi chít, tức những bài quá hay, quá tuyệt đến độ Thầy phải bỏ công ra biến nó thành tuyệt tác, như thể người sinh viên viết giỏi được Thầy chỉ giáo để thành một văn hào. Với giọng nói lắp bắp cà lăm trời sinh, Giảng sư Diệm giảng bài kiểu ứng khẩu, phân tích các bài thơ văn như bài thơ Nàng Quạ của Edgar Allan Poe, Hoàng Thủy Tiên của William Wordsworth, Diễn Văn Đọc Tại Gettysburg của Abraham Lincoln, hay thi phẩm Sóng Thoái Triều Dâng của Henry Wadsworth Longfellow, và bao áng văn thơ kiệt tác khác, mà những lời uyên bác hùng biện trong ý tưởng của Thầy đã khiến sinh viên khó có ai cưỡng lại được sức cám dỗ của lòng mong muốn thấm nhuần tất cả – à, ý tôi là được Thầy truyền thụ bí kiếp.
Đối với tôi, Tiến sĩ Lê Văn Diệm là vị giảng sư tài ba duy nhất tôi kính mang ơn sâu nghĩa nặng. Vào thời buổi bao cấp gian khó của cuối những năm bảy mươi của thế kỷ trước, khi nguồn thực phẩm Nhà Nước phân phối cho cư dân Thành phố Hồ Chí Minh có giới hạn, biết tôi là một hàn sĩ phải nuôi cả gia đình đông người gồm cha mẹ già yếu và một đàn em bằng cách vừa đi học vừa đi dạy kèm lớp sinh viên năm thứ nhất và dạy kèm cả những người sắp là “thuyền nhân”, nhiều hôm Thầy đứng núp sau thân cây to trước Đài Truyền Hình chờ tôi đạp xe ra khỏi trường là Thầy ném vào giỏ trước xe của tôi một bao nào là vài ký bột mì, vài ký ngũ cốc, cùng những nhu yếu phẩm tiêu chuẩn như 10 gram bột ngọt, một ống kem đánh răng nhỏ, 50 gram đường tinh luyện, v.v., rồi bỏ đi, dáng gầy cao lêu nghêu, hai tay chắp sau lưng, dường như sợ bị lãnh đạo Khoa, lãnh đạo trường, và đồng nghiệp bắt gặp rồi kết tội Thầy là tiểu tư sản không thèm nhận phần lương thực Nhà Nước cấp phát. Và cũng nhiều lần Thầy vào thư viện trường, nhìn quanh xem tôi có đang ngồi đâu đó với mấy quyển bách khoa toàn thư khổng lồ nặng chình chịch hay không, rồi vờ như chú mục đọc các bảng tin từ từ tiến gần đến bàn tôi đang tra cứu, Thầy nhanh nhẹn ném một túi to toàn những sách tiếng Anh quý hiếm, có khi là quyển từ điển Webster, trước khi tiến thẳng ra cửa, dáng cao gầy, hai tay chắp sau lưng, dường như sợ bị bắt gặp bởi những vị mà ao ước lớn lao duy nhất của cuộc đời họ là ném tôi, một sinh viên hippie bất trị, ra khỏi Đại Học Văn Khoa. Đây là những việc trong số biết bao điều Thầy dành riêng chỉ cho tôi. Tiến sĩ Lê Văn Diệm: nhà trí thức tuyệt vời với trái tim vàng, vị Giảng sư đã bảo tôi quỳ xuống trên gối trái, hai tay đặt trên gối phải theo phong cách nhà quý tộc Ăng-lê trong Điện Buckingham, rồi Thầy đặt thanh bảo kiếm lên vai phải rồi vai trái của tôi để phong cho tôi tước Văn Vương Thi Bá của Ban Anh Văn trường Đại Học Văn Khoa thủa ấy.
Khi đến một nhà thờ Công Giáo trên đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, dự lễ tang của Thầy, buổi sáng vẫn còn đang ngái ngủ, tôi có gặp hai nữ tu em ruột của Thầy, đã ở chăm sóc Thầy những năm cuối cuộc đời Thầy. Nước mắt tuôn trào, ôm lấy áo quan của Thầy, tôi thấy mình là thằng học trò vất đi. Tôi dành mọi thời gian cho công việc, thức khuya dậy sớm, nhưng chỉ dành ít phút cho Thầy với thì thoảng một lá thư qua đường bưu điện, mỗi năm một giỏ hoa sang trong đặt ở Mẫu Đơn trên Đại Lộ Nguyễn Huệ, chứ nào có đến thăm Thầy. Một thập niên sau ngày tốt nghiệp, có lần tôi và vợ tôi – cả hai đều là sinh viên của Thầy – đến thăm Thầy, mang theo hoa và quà Tết. Khi các nữ tu em gái của Thầy kêu to ở ngưỡng cửa: “Anh ơi, có học trò đến nè”, tôi nghe tiếng Thầy nói lắp bắp, run rẩy, yếu ớt, bằng tiếng Việt, từ sau tấm rèm trước cửa phòng Thầy: “Phải Phước không? Chắc là Phước! Chớ có ai tới thăm anh đâu, lúc còn đi dạy cũng không, mà sau khi về hưu cũng không. Chỉ có Phước mới là người nghĩ đến ông già này thôi. Nè, pha trà cho anh đãi khách nhe!” Thầy thật là vĩ đại, vì tôi không thấy bạn học cũ nào của tôi ở đám tang Thầy – cũng có lẽ do tôi là kẻ đến sau cùng, hoặc do họ có lý do bận họp hành ở đâu đó ngoài vùng phủ sóng. Chỉ có Trời mới biết thực hư.
“…Ngày lại sáng, song có còn đâu nữa
Biển đã đưa người lữ khách dạt bờ.
Và sóng thoái lùi trước ngọn triều dâng.”
Phụ trách giảng dạy Luận Văn Anh và Văn Chương Anh tại trường Cao Đẳng Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, tôi cần cù chi li bút phê viết bằng tiếng Anh những lời phê bình, những chỉnh sửa, những đề nghị, bất kể đó là chỗ sai (sửa lại cho đúng) hay chỗ đúng (vẫn sửa lại cho tuyệt vời hơn) trên những bài tiểu luận của sinh viên. Tôi đã trở thành Giảng Sư Lê Văn Diệm đối với học trò tôi; song, lại khiến toàn ban lãnh đạo Khoa và đa số giáo viên ghét bỏ. Trưởng Ban Anh Văn (Cô Thu Thủy) và Tổ Trưởng Công Đoàn Khoa Ngoại Ngữ (Thầy Tấn Phát, giáo viên Anh Văn) phê phán tôi một cách ngu xuẩn và buồn cười rằng việc tôi ghi nhận xét khắp nơi trong từng trang bài viết của sinh viên đồng nghĩa với việc tôi xúc phạm sinh viên, còn việc tôi sửa bài tập cho sinh viên có nghĩa tôi khuyến khích sinh viên học tập thụ động (sinh viên tự làm bài tập, tự mình phải biết mình sai chỗ nào, tự mình tìm cách sửa sai, mới là học…chủ động). Trần Duy, một trong những sinh viên xuất sắc của tôi, rất giỏi viết văn tiếng Anh và sáng tác thơ ca tiếng Anh dưới sự dìu dắt của tôi, đã cùng gia đình đi Hoa Kỳ, mãi mãi không quay về Việt Nam, không tài nào hiểu được vì sao dưới mái trường đại học xã hội chủ nghĩa, những Thầy Cô có bằng Cao Học MA của Mỹ trước 1975 lại xử sự như thế với tôi, và vì sao tôi vẫn điềm nhiên vui vẻ giảng dạy nhẫn nhục chịu đựng sự tra tấn xằng bậy như thế hàng thập niên. (Chỉ có một cô giáo cùng khoa hiểu lý do vì sao tôi vui vẻ tích cực giảng dạy: tôi là học trò Thầy Lê Văn Diệm. Cô giáo này cũng là học trò Thầy Lê Văn Diệm. Và cô sau đó trở thành mẹ ruột của con ruột tôi.)
Tôi rất tự hào và thấy mình cực kỳ may mắn có được cơ hội học hỏi nơi Giảng sư Lê Văn Diệm cả về kiến thức và đạo đức nghề nghiệp, được Thầy đánh giá cao, được Thầy chăm sóc, được ở gần Thầy là chuyên gia kiệt xuất duy nhất về Anh Văn ở Việt Nam, và được trở thành truyền nhân duy nhất của Thầy đối với những phân môn cao cấp mà Thầy đã từng dạy ở các đại học Việt Nam và Hoa Kỳ.
Tôi mang ơn Trời Phật đã ban cho tôi phúc lành được gần những con người kiệt xuất để trải nghiệm một thế giới có thực của hạnh phúc và niềm tin yêu vào cuộc sống.
Tôi đã có được niềm vinh dự độc tôn được Giảng sư Lê Văn Diệm của Việt Nam đánh giá cao trong cuộc đời này.
Học trò của Thầy,
Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế
Ghi chú:
1) Trước 1975 tại Việt Nam Cộng Hòa, các danh xưng sau được mặc nhiên sử dụng mà không do sự công nhận hay phong ban bởi Nhà Nước:
Dạy tiểu học: Giáo viên
Dạy trung học: Giáo sư
Dạy đại học: Giảng sư.
Đối với tôi, Thầy Lê Văn Diệm là Giảng Sư, Tiến Sĩ.
Đối với sinh viên của tôi, họ luôn gọi tôi là Professor Hoàng Hữu Phước vì họ cho rằng từ “teacher” và “giáo viên” là dành để gọi tất cả các giáo viên Anh Văn tất cả các cấp ở Việt Nam, không phải dành cho tôi, còn “giáo sư” là của Nhà Nước.
2) Nguyên tác tiếng Anh I and Professor Le Van Diem đăng trên Yahoo!3600 năm 2005. Bản tiếng Việt được đăng trên Emotino.com ngày 16-10-2010. Bản tiếng Việt đăng lại trên blog Hoàng Hữu Phước và Thầy Cô ngày 12-3-2013 ngay sau khi web Emotino.com bị bọn phản động đánh phá sau khi có bài Tứ Đại Ngu. Nguyên văn tiếng Anh bản chính thức hiện không còn, chỉ còn bản nháp với nội dung chưa chỉnh sửa như sau:
Doctor Le Van Diem was Professor of American Literature at Hue University and at the Faculty of Letters (or Dai Hoc Van Khoa) of the University of Saigon before 1975, and thereafter at the Hochiminh City Faculty of Letters, which was renamed to the HCMC University in 1978. At present it is under the pitifully-poorly-coined name of the University of Social Sciences & Humanity, the common way of new Vietnamese people who prefer displaying the stark-nakedness of lingual components, e.g. Cua Hang An Uong (instead of Quan or Snack-bar, or Restaurant), Dai Hoc Mo-Ban Cong (instead of using a noble or neutral name e.g. Mac Dinh Chi University or Pearl College, or the like).
Trapped in a turmoil environment of most of the teaching team coming to the stage of auditorium just to scribble down onto the chalk board some English exercises, then standing leaning against the door with dreamy eyes and wandering mind on some master plans to flee the country under the notorious coinage of boat people by the mass media of the Western world; or to deliver surprisingly ardent-plus-sobbing speeches of revolutionary patriotism against the Beijing invaders of the last half of the nineteen eighties and to ardently volunteer with tears and sobbing to go to the battlefronts at the age of late fifties plus, Professor Diem remained a noble gentleman performing the professionalism of his profession in a really professional manner: whilst others senselessly scratched out of words and phrases on students’ paper work with a tick and a tick and a tick then counting red dirty scratching to give marks (of course, good marks for paper having less red out-scratching), he industriously toiled to make comments, write correction, give suggestion to all – regardless of whether it was of correct or incorrect wordings – to help improve the English composition writing skill of his students (of course, the work full of densely noted comments and correction in red being given the best marks, i.e. the AA+, by him). With a natural stuttering voice, Professor Diem spoke impromptu about his analysis of Edgar Allan Poe’s The Raven, William Wordsworth’s Daffodils, Abraham Lincoln’s Gettysburg Address, and Henry Wadsworth Longfellow’s The Tide Rises, the Tide Falls, among many others, so profoundly eloquently that students could not resist the temptation to have all details of his speeches well absorbed – well, I mean instilled into.
Personally speaking, Doctor Le Van Diem is the only talented professor I sincerely owe my gratitude to. At the tough time of the late nineteen-seventies when the food subsidy program could hardly provide sufficient stuff to the city dwellers, knowing I was a poor student supporting a huge family of ailing parents and kid brother and sisters by tutoring freshman classes and to-be boat people, he many a time hid himself behind a big tree in front of the HCMC Television Company, waiting for me to come out from the university just to timely throw into the front basket of my mini-bicycle a bag of say one or two kgs of ground wheat, an equivalent quantity of some grains, and other items, e.g. 10gms of MSG, a small toothpaste tube, and 50gms of RE sugar, and the like, before trudging away with his two hands behind his back, for fear of being seen by the revolutionary managers and colleagues and labeled by them the bourgeois who did not need the food offered free from the government. He also many a time went to the university’s library to cast a look around to check if I was there behind piles of old dusty bulky hard-cover encyclopedia, and then pretending to read some posters on the wall he slowly came closer to my desk and “threw” to me his bag full of valuable English books and sometime a Webster dictionary or the like, before going straight to the exit, probably for fear of being seen by any of his colleagues whose only wish in life was to “throw” me out of the university for my being a hippy of an adamant heart. These are some amongst other unique cares reserved to only me by Professor Le Van Diem, the very nice and kind intellectual with a heart of gold, and the noble professor who dubbed me the King of Composition of the English Department of the then Faculty of Letters.
When I came to his funeral at a church on the Nguyen Dinh Chieu Street of Distrct 1, HCMC, the morning was still slumberously snoring. I met his two sisters, the kind Christian nuns who were with Dr Diem almost all those last years of his life. Touching his coffin with tears rolling down over my cheeks, I felt much regretful. I could burn candles at both ends for business but could only send him some letters or flowers once a while instead of coming to meet him more often. A decade after my graduation, once my wife and I came to his house for the first time in my life with some New Year gifts and flowers. As his sisters calling him from the door “Diem! Here come your students“, he spoke out with a trembling ailing voice from behind the curtain to his own room: “Is that Phuoc? It should be him! Not any student has visited me before or from my retirement! Phuoc is the only student who thinks of me and who can make a visit to this old man! Give me tea for my guest, Sis! Please!”. He was so great indeed: I did not see any of my old classmates at his funeral, probably I was the late comer, or whether they took an excuse for some urgent meetings, only God knows.
“…The day returns, but nevermore
Returns the traveler to the shore.
And the tide rises, the tide falls.”
Teaching English Composition and Literature at the HCMC Teachers’ College, I toiled to give comments, corrections, and suggestions to my students’ essays. I became another Professor Le Van Diem in the eyes of the students; however, such performance irritated both the dean and some colleagues. The Head of the English Department Ms Thu Thuy and the Head of Labour Union of the Foreign Languages Department Mr. Tan Phat foolishly ridiculously blamed me for what they named as my terrible wrongdoings: writing correction into the work of the students meant I did not respect them, and providing corrections or suggestions to the exercises meant I made students passive with their studying. Tran Duy, one of the best students of mine, was excellent in English writing and even composed poems in English under my encouragement and tutoring. He went to the USA for good with his family, failing to understand why the college full of teachers well decorated with US Master Degrees behaved like that to me and why I was still trying to suffer nonsensical torture for nearly a decade unnecessarily.
I am proud and feel lucky to have a unique opportunity to learn from Professor Le Van Diem, both from his knowledge and from his ethical conducts of the profession; to be highly evaluated and taken care of by him, the only expert of the English language in Vietnam; and to become a man as his only descendant of the tough subjects he ever taught at universities.
I wish to thank God for bestowing on me His blessings to live among many excellent people to experience a real world of happiness and trust in life.
It is my sincerely exclusive pride to be highly evaluated by Professor Le Van Diem of Vietnam.
Hoang Huu Phuoc, MIB
You must be logged in to post a comment.