Tha Thứ : Chiếc Mặt Nạ Thời Thượng Giảo Gian

Vạn Thoáng Mê Lầm

Hoàng Hữu Phước, MIB

05-01-2016

me-lam-2

Thời nay thiên hạ hay nghe nói về “tha thứ”. Sở dĩ “nghe nói” vì thiên hạ nào có cổ súy cho “tha thứ”, mà chính vì hai ba cái ý kiến lẻ tẻ của những kẻ không có dung mạo từ bi và cũng chẳng có cuộc sống đạo hạnh bám víu vào hai chữ “tha thứ” như chủ đề duy nhất có thể nói mà không sợ bị bút chiến luận để làm mặt nạ đẹp xinh cho mình; và hai ba cái ý kiến lẻ tẻ ấy được cơ quan truyền thông chính thống của Đảng Cộng Sản Việt Nam lợi dụng quyền lực báo chí để tải đăng nhằm “nhét chữ vào mắt” độc giả để làm độc giả cứng người băng giá sau khi đã thử nghiệm thành công chiêu thức “nhét chữ vào mồm” Nghị sĩ Hoàng Hữu Phước vụ “dân trí thấp” để làm độc giả tuôn trào phún thạch.

Bài viết này, do đó, nhằm khơi gợi một sự thật mà nhiều ngàn năm qua chưa hề có ai nói đến về nội hàm “tha thứ” vì chưa ai hiểu, vì chưa ai từng cố gắng nghĩ sâu  hơn, vì ai cũng tin tưởng tuyệt đối vào những phát ngôn của giới tu hành cứ như thể các phát ngôn ấy tương đương lời Chúa/Phật, hoặc ai đó trong giới tu hành cho rằng đừng nên dại dột tiết lộ để bản thân tiếp tục hành nghề cho một cuộc sinh nhai sinh kế sinh tồn và sau khi đầy túi thì dục xúi và động xách nhằm dọa đe phủ chính.

A- Những Ai Sính Nói Về “Tha Thứ”:

Có nhiều hạng người thường được thấy là hay mở miệng nói về “tha thứ”.

1) Tu Sĩ:

Các tu sĩ thì có bốn yếu điểm nỗi bật gồm:

a- Sự khách quan hoàn toàn bị triệt tiêu do cái gọi là đức tin tôn giáo nên các phát biểu về “tha thứ” – nếu có – chỉ có giá trị tham khảo bên trong chốn tu hành và với các tín đồ chứ không bao giờ có giá trị tuân thủ với toàn thể chúng sinh hay nhân gian khắp chốn.

b- Trình độ học vấn không luôn cao out-of-the-box (đứng trong hộp vươn cao hơn bờ thành của hộp để nhìn ra khắp chốn ta bà từ quanh ta đến cao vời trụ vũ) mà chỉ cao stuck-in-the-box (ngồi thu lu trong hộp đậy nắp xem chỏm đầu ai cao đụng nắp hộp hơn), nghĩa là có nhiều tu sĩ là tiến sĩ thần học nhưng chẳng mấy ai nghe nói đến tu sĩ tiến sĩ y khoa, tu sĩ tiến sĩ vật lý thiên văn, tu sĩ tiến sĩ môi trường, tu sĩ tiến sĩ địa chất, tu sĩ tiến sĩ cổ sinh vật học, v.v., dù tất cả đều được mặc định là do Chúa/Thượng Đế tạo nên, từ con người, Địa Cầu, tinh tú, môi trường sống, cho đến Khủng Long Bạo Chúa Tyrannosaurus và Cá Sấu Khủng Khiếp Deinosuchus, nghĩa là mọi thứ của Chúa/Thượng Đế tạo nên lẽ nào không đáng để các tu sĩ quan tâm nghiên cứu, hoặc lẽ nào các tu sĩ cho rằng nghiên cứu sẽ đồng nghĩa với “không có đức tin vào Chúa” chẳng khác gì con cái đem Bố Mẹ ra thử DNA để xác định cha-con như trong phim xã hội trường thiên Hàn Quốc?

c- Cũng vì vấn đề b ở trên, việc rao giảng kinh thánh/kinh kệ của các tu sĩ có những lúc trái với lời dạy của kinh thánh/kinh kệ.

Làm trái lời thì có thể qua những vụ về các sư hổ mang (mà báo chí Việt Nam Cộng Hòa thường đưa tin) chuyên làm tín nữ mang bầu hoặc phá trinh con gái cùng em gái các thiện nam, hoặc các sư khác cũng do báo chí Việt Nam Cộng Hòa thường đưa tin chuyên dụ dỗ các tín nữ lớn tuổi đem toàn bộ gia sản vào chùa “cúng dường Tam Bảo” vì “đời là bể khổ, Phật lại luôn thử thách khiến con cái sẽ gấu ó tranh giành gia tài gây ra thảm cảnh bất hạnh, vì vậy tốt nhất hãy vì con cháu mà triệt tiêu hết các tham sân si ấy để Phật ban phước cho mình, ban phước cho con cháu hòa thuận, vì mình tạo phước cho bá tành bằng cách vô chùa ở luôn trong chùa để cùng chùa đem tài sản ấy làm công quả công đức bố thí cho bá tánh và sửa sang nơi thờ chư Phật”.

Còn ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì nghe đâu có vài ba vị linh mục lờ đi các lời dạy của Chúa về hãy yêu kẻ thù của mình, như “Nếu ai tát con bên gò má này thì hãy chìa luôn gò má bên kia cho kẻ ấy; và nếu ai lấy áo khoác của con thì hãy đưa luôn áo xống” (Luke 6:29 và  Matthew 5:39) và “Hãy trả lại cho Caesar những gì của Caesar và trả về Thượng Đế những gì của Thượng Đế” (Mark 12:17) qua việc xách động giáo dân tham gia chống chính sách của chính phủ – nói ngắn gọn và an toàn hơn cụm từ chống chính phủ – và đòi chủ quyền đất đai mà họ cho rằng xưa kia thuộc về giáo hội của họ do thực dân Pháp giao cho họ. Có thể họ thực tâm không thể thương Cộng Sản vì không xem Cộng Sản là kẻ thù (Chúa dạy hãy yêu kẻ thù) nên không thể chìa ra gò má bên còn lại dù họ cáo buộc Cộng Sản tát họ tức đàn áp tôn giáo của họ, và có thể họ tin rằng đất đai ấy là của Thượng Đế nên Cộng Sản phải trả lại cho họ là những người được Thượng Đế sang tên chủ quyền Sổ Đỏ chăng?

d- Cũng vì vấn đề b ở trên, việc suy diễn sai kinh thánh/kinh kệ của các tu sĩ có những lúc làm các tu sĩ phạm tội trần gian kiểu chạy xe hai bánh phóng lên lề đường để tránh kẹt xe mà vẫn đến nơi đến chốn đạt yêu cầu kinh thánh/kinh kệ.

Phóng lên lề thì có thể kể đến các tu sĩ của Chúa (tức các linh mục Cơ Đốc và mục sư Tin Lành) mà báo chí Âu Mỹ – báo chí Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không bao giờ dám khai thác lập lại các tin này từ báo chí Âu Mỹ – thường đưa tin như có các hành vi dâm ô đối với các bé trai đang học tu tại chủng viện hoặc con trai của các tín đồ. Tại sao lại là ấu dâm nam? Đây là câu hỏi chưa từng được ai giải đáp. Theo Lăng Tần Tiên Sinh, đó là vì Thánh Kinh Cựu Ước bắt đầu bằng sự tầm thường hóa phụ nữ (Chúa Trời không phí thời gian thiết kế design nặn ra phụ nữ mà đơn giản rút một thanh xương sườn của quý ông Adam rồi hóa thành mụ đàn bà Eva lệ thuộc và là vật sở hữu giải trí của quý ông Adam, nghĩa là phụ nữ không có thân phận chính danh quý báu), và tội phạm hóa phụ nữ (tại mụ đàn bà Eva ăn trái cấm khiến nhân loại biết mặc quần và có trí tuệ nên khiến nhân loại bị trừng phạt, chứ không phải tại quý ông Adam ngu đần mê say tình dục nên vợ bảo gì cũng nghe ráo, nghĩa là phụ nữ là tội phạm và do đó là kẻ thù của nhân loại khiến nhân loại không những phải sinh-lão-bịnh-tử mà còn phải làm xác sống zombie để chịu phán xét Ngày Tận Thế), còn Thánh Kinh Tân Ước kết thúc bằng sự tàn tệ hóa phụ nữ (Chương Khải Huyền gọi kẻ tồi tệ dâm đãng gây ra Ngày Tận Thế là Con Đĩ Babylone cũng như xuyên suốt Kinh Thánh Tân Ước các lăng mạ cho sự dâm ô phản trắc đều đổ lên phụ nữ  nghĩa là hễ sai quấy tàn tệ đều đổ lên đầu phụ nữ, biến phụ nữ thành hình tượng của sự bẩn nhơ).

Các lý giải vì sao các tu sĩ của Chúa chọn ấu dâm nam khi không thể dùng lời tối thượng của Chúa để đè nén sự thèm khát tối cần của tình dục gồm (i) phụ nữ tội lỗi dơ dáy nên quan hệ tình dục với họ sẽ mang tội với Chúa; (ii) Kinh Thánh chỉ ghi tội thông dâm toàn là liên quan tới phụ nữ; (iii) nam giới là chất liệu thượng đẳng  của Thượng Đế; (iv) nam thiếu niên là tinh túy nhất của nam giới và đặc biệt là nam thiếu niên không bị thụ thai nên dễ dấu diếm phụ huynh, dễ kéo dài lập lại sự xâm hại tình dục mà không bị lộ, dễ dùng sự dọa đe khống chế, và chỉ có bé gái mới có việc khóc lóc và tự sát; (v) tư liệu giáo sử của Vatican có chi tiết những Đức Giáo Hoàng nào – trong đó có Sergius III, John X, John XII, Benedict IX, Paul II, Sixtus IV, Alexander VI, Julius III, v.v. – đã dâm loạn với các nữ nhân trong gia đình càng chứng minh quan hệ tình dục khó tránh khỏi, và (vi) tư liệu giáo sử của Vatican cho đến thời hiện đại vẫn luôn là phải bằng mọi giá bảo vệ tất cả các linh mục và giám mục nào bị cáo buộc xâm hại tình dục ấu dâm nam bằng cách bổ nhiệm chức danh cao hơn tại địa phương khác, khiến ấu dâm nam có khi là cách đi tắt hữu hiệu lên hàng giáo phẩm cao hơn.

Tóm lại, tu sĩ hay nói về “tha thứ” vì muốn bảo vệ các đồng nghiệp phạm tội.

me-lam

Trong khi kinh/kệ nói về “tha thứ” đơn giản chỉ vì tôn giáo đã có sẵn các công cụ trừng trị khủng khiếp và hiệu quả – dù trừu tượng – về Địa Ngục, Hỏa Ngục, Luyện Ngục, Ngày Phán Xét, Ngày Tận Thế, nên điều tín đồ cần làm là hãy để “thân tâm thường lạc”, đừng bận tâm đến hận thù và báo oán, do “ác giả ác báo, thiện giả thiện lai” và nhân quả là luật Trời không bao giờ suy suyển; thì các nhà tu hành chỉ đơn giản lái sự “tha thứ” vào duy chỉ ý nghĩa của một thứ lòng tốt đầy nhân hậu nên có ở con người.

Cần nhớ một điều rõ ràng rằng tất cả các vị chủ tể các tôn giáo đều rất dứt khoát trong sự trừng phạt và trừng trị, nghĩa là không bao giờ có sự bao dung, không bao giờ có sự rộng lượng, không bao giờ có sự tha thứ bất kỳ. Thậm chí Thánh Kinh Cựu Ước còn có giai thoại Chúa Trời sai thiên sứ bay đến hai thành Sodom và Gomorrah vung gươm giết sạch nam phụ lão ấu để trị tội sa đọa. Ngay cả ý nghĩa của việc xưng tội và được tha tội của một tôn giáo cũng không thể trả lời câu hỏi vậy người đã xưng tội và được tha tội có lên thẳng thiên đàng hay lại sẽ trong một ngày xa thẳm nào đó ở tương lai phải ngồi dậy trong hình hài một zombie trong Ngày Phán Xét của Ngày Tận Thế.

Vì vậy, sự trừng trị và trừng phạt của xã hội loài người luôn là một cụ thể buộc phải có; còn tha thứ thuộc phạm trù ý tưởng đơn thuần, không thể bị đánh lận con đen vào đời sống thật trong một cộng đồng thật nhất là trong thời đại văn minh.

2) Kẻ Chơi Trội: Dã Nhân Giả Nhân

Lăng Tần Tiên Sinh có lời khuyên dành cho các học trò của ông là ngay khi nghe bất kỳ ai nói về chủ đề “hãy tha thứ” thì hãy lập tức tìm hiểu rõ nhân thân của người ấy vì bảo đảm đó là (a) kẻ giả nhân giả nghĩa có cuộc sống bất nhân bất nghĩa ngay tại khu dân phố và nơi làm việc của người ấy, hoặc là (b) người có cậy nhờ sự lăng xê của một “nhà báo”, hoặc là (c) người chưa giả nhân giả nghĩa nhưng là dã nhân tức chưa hề được cộng đồng con người biết đến nên phải tự phát ngôn trên blog về “tha thứ” để chào hàng với cư dân mạng chứ không thể chào hàng bằng thứ kiến thức gì khác cao siêu hơn.

3) Kẻ Lạm Quyền:

Lạm quyền vì chỉ có những người được liệt kê ở Phần C bên dưới mới có quyền “tha thứ”. Ở đây cần nói rõ về chữ “người” – nghĩa là “công dân” chứ không phải thánh thần gì cả – để triệt tiêu mọi mưu đồ chụp mũ “báng bổ” bởi những kẻ luôn cho rằng chỉ có Chúa mới có quyền “tha thứ”.

4) Kẻ Phạm Tội:

Tất nhiên, những kẻ phạm tội bao giờ cũng xin được “tha thứ” khi tội đã phạm bị phanh phui, trừ những tên tội phạm như Bob Kerrey tại Đại Học Fulbright Việt Nam vì Bob Kerrey có sự bảo vệ của những kẻ lạm quyền.

5) Kẻ Mê Lầm:

Và tất nhiên, những kẻ mê lầm là những kẻ lầm tưởng (a) mình có quyền nói về “tha thứ”, (b) thiên hạ sẽ bị mình tùy thích tung hỏa mù “nhét chữ vào mắt” viết  nhăng viết cuội mà vẫn tin, và (c) hễ nói về “tha thứ” thì tự động mình sẽ được thiên hạ tôn lên thành bậc hiền nhân quân tử.

B- Quyền Căm Thù Tuyệt Đối Chính Đáng:

Do “tha thứ” là đặc quyền chỉ thuộc về những người được liệt kê ở Phần C bên dưới, mà “tha thứ” luôn là phần không thể tách rời nguồn cơn của “căm thù”, Phần B này nhằm nêu rõ “căm thù” nào là chính đáng cho một quyền tha thứ với sự hiểu biết rằng quyền tha thứ có nghĩa tha thứ hay không tha thứ, là đặc quyền của người có căm thù chính đáng.

1- Căm Thù Chính Đáng

Lòng căm thù nói chung là thứ tình cảm có nơi tất cả, bất kể người tốt hay kẻ xấu.

Gia đình một tên cướp của giết người căm thù người hào hiệp nào đã khiến tên cướp bị bắt phải đền tội. Gia đình tên cướp ấy thậm chí có thể ra tay báo oán ngoài khuôn khổ luật pháp đối với người hào hiệp ấy. Trong trường hợp này tập thể kẻ xấu có lòng căm thù.

Gia đình một tên đại quan tham nhũng căm thù người hào hiệp nào đã khiến tên đại quan ấy phải đền tội và toàn gia đình bị tịch biên tài sản. Gia đình tên đại quan ấy thậm chí có thể ra tay báo oán ngoài khuôn khổ luật pháp đối với người hào hiệp ấy. Trong trường hợp này tập thể kẻ xấu có lòng căm thù.

Gia đình một lương dân căm thù bọn báo chí nào đã khiến lương dân ấy thành nạn nhân – từ nội dung liên quan đến kinh doanh đến nội dung bị vu vạ “nhét chữ vào mồm” –  khiến thành đối tượng của đe dọa, bôi nhọ, chặn ngăn sự nghiệp. Gia đình của lương dân ấy thậm chí có thể ra tay báo oán trong phạm vi luật pháp chưa cấm đối với bọn báo chí ấy. Trong trường hợp này tập thể người tốt có lòng căm thù.

Như vậy, với sự thể rằng bất kỳ ai cũng có lòng căm thù, sự rành mạch hóa nhằm phân định ai mới có quyền căm thù vì chỉ khi có quyền căm thù thì người ta mới có quyền tha thứ.

2-  Những Người Có Toàn Quyền Với Căm Thù Chính Đáng:

Sự lầm lẫn về ngữ nghĩa ngôn từ là vấn nạn cực kỳ phổ biến ở Việt Nam.

“Không căm thù” hoàn toàn không có nghĩa là “tha thứ”.

Quyền căm thù tuyệt đối chính đáng là đặc quyền bất khả xâm phạm của những người sau đây:

a) Nạn Nhân Trực Tiếp Của Thiên Tai Và Thân Nhân

Bao triệu người Việt là nạn nhân của thiên tai. Họ có quyền căm thù chính đáng. Nhưng như toàn nhân loại, họ không căm thù thiên nhiên. Họ cũng không hề có phút giây nào nghĩ rằng minh đã hay đang tha thứ thiên nhiên. Đơn giản vì có bản tính thuần Việt: họ cho đó là tai họa của số kiếp dù đó là biệt nghiệp hay cộng nghiệp, dù đó là quả báo hay oan khiên tiền định của nghiệt duyên.

b) Nạn Nhân Trực Tiếp Của Một Biến Cố Lịch Sử Và Thân Nhân

Bao triệu người Việt là nạn nhân của chiến tranh xâm lược.

Họ có quyền căm thù chính đáng.

Đạo lý tự nhiên của người Việt: chiến thắng một cuộc chiến tranh thì đã mặc nhiên là sự trừng trị thỏa đáng thích đáng mà “Trời” giáng xuống kẻ thù của họ.

Nhưng như toàn nhân loại trong tất cả các cuộc chiến tranh khác và Thế Chiến, họ không căm thù bên nào của chiến tranh đã biến họ thành nạn nhân. Lúc hậu chiến, họ cũng không hề có phút giây nào nghĩ rằng mình đã hay đang tha thứ chiến tranh. Đơn giản vì có bản tính thuần Việt: họ cho đó là tai họa của số kiếp dù đó là biệt nghiệp hay cộng nghiệp, dù đó là quả báo hay oan khiên tiền định của nghiệt duyên. Đó là lý do dân Việt như một tập thể chung của bên chiến thắng thì không căm thù Tàu cũng không tha thứ Tàu, không căm thù Pháp cũng không tha thứ Pháp, không căm thù Mỹ cũng không tha thứ Mỹ, không căm thù Campuchia cũng không tha thứ Campuchia – vì căm thù là chịu đựng số kiếp còn tha thứ là không cần thiết vì đã trả được oán thù qua bàn tay của “Trời”.

Dù vậy, họ và thân nhân của họ – vì đa số họ đã bị chiến tranh tước đi mạng sống – có toàn quyền căm thù chính đáng và toàn quyền tha thứ. Như bản tính thuần Việt, họ không có căm thù và không có thứ tha; song, khi bất kỳ ai tự hối tìm đến xin lỗi họ vì những tội ác đã gây nên trong chiến tranh, họ sẽ ngay lập tức nói lời tha thứ, chỉ vì họ biết hai điều rằng (a) đó là nghiệt duyên của họ mà họ phải âm thầm chịu đựng, và rằng (b) “kẻ chạy lại” luôn đáng được họ đón chào như thượng khách chứ không với sự thứ tha họ ban cho  kẻ tội đồ.

Đối với Bob Kerrey của Đại Học Fulbright Việt Nam thì chỉ có nạn nhân vụ thảm sát cùng thân nhân của họ mới có quyền căm thù chính đáng để tha thứ Bob Kerrey. Bất kỳ ai đặt vấn đề Bob Kerrey nên được tha thứ thì đó là sự lạm quyền, vô duyên, vô đạo, bất chính, bất khả tư nghị.

c) Nạn Nhân Trực Tiếp Của Tai Nạn, Tai Họa Và Thân Nhân

Nhiều người đã là nạn nhân của những tai nạn, những vu oan, những vụ cướp của giết người và/hoặc hiếp dâm, v.v.

Rất có thể một số người trong họ đã cam chịu, xem đó như một thứ nghiệt duyên, quả báo của một kiếp trước mơ hồ, hay một oan khuất mang tính thử thách của hiện tại, v.v.

Rất có thể một số người trong họ đã cam chịu vì tránh một thiệt hại lớn hơn nếu phải khai báo, tố cáo, kiện thưa khi công khai thực hiện quyền căm thù và quyền đòi trừng trị thích đáng.

Chỉ có họ và thân nhân của họ mới có quyền căm thù chính đáng. Nhưng họ sẽ không bao giờ nghĩ đến “báo oán” nhất là nếu xã hội có cơ chế trừng trị thích đáng và hữu hiệu kẻ gây tai nạn/tai họa cho họ hay người thân của họ. Không “báo oán” nghĩa là sự “tha thứ” được mặc nhiên đi kèm không kèn không trống. Trong ý nghĩa này, sự “tha thứ” đã bị hình phạt trừng trị nghiêm khắc của luật pháp triệt tiêu.

c) Công Dân Đối Với Nghĩa Vụ Lịch Sử

Bất kỳ công dân nào cũng có nghĩa vụ đối với lịch sử.

Quyền căm thù chính đáng là quyền của những công dân thực thụ của một quốc gia đối với những biến cố đã chính thức minh định trong lịch sử chính thức của quốc gia mình về những tai họa mà một thực thể từ bên ngoài quốc gia mình đã gây ra cho quốc gia mình, dân tộc mình, mà bản thân mình vẫn đang là công dân của quốc gia đó, dù thậm chí tổ tiên mình không chắc hoặc chắc không đã có ai hay những ai đã là nạn nhân của các tai họa do ngoại nhân gây ra trong lịch sử ấy.

Với ý nghĩa này, mọi công dân Việt Nam có quyền căm thù chính đáng và có quyền báo thù chính đáng đối với Tàu, với Thái, với Pháp, với Mỹ, với Campuchia.

Tuy nhiên, với luận điểm chỉ có người có quyền căm thù chính đáng mới có quyền tha thứ, thì quyền căm thù chính đáng trong phạm trù nghĩa vụ lịch sử lại không bao giờ mặc định có kèm quyền tha thứ, mà chỉ liên quan đến quyền trả thù hoặc quyền không trả thù.

Bất kỳ ai bảo rằng người Việt có lòng rộng lượng, bao dung, tha thứ những tội ác lịch sử của Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Campuchia, thì đó là những phát ngôn xằng bậy.

Chính xác về ngữ nghĩa tu từ, người Việt không nghĩ đến khai thác lòng căm thù chính đáng để báo oán hay trả thù đối với các biến cố lịch sử gây ra bởi các quốc gia khác, mà cũng chẳng nghĩ đến việc tha thứ, đơn giản vì công lý đã được thực thi, luật Trời đã tỏ, phần thắng đã thuộc về nước Việt.

C- Quyền Tha Thứ:

Khi ngợi ca sự công bằng và hướng đến điều cao thượng muốn không ai khác phải gánh chịu cùng tai họa từ cùng kẻ gây tai họa, quyền tha thứ, tóm lại, nằm trong tay hai thực thể và với những điều kiện sau:

1) Nạn nhân trực tiếp của tai nạn, tai họa cùng thân nhân của họ, nếu kẻ gây tai nạn/tai họa cho họ bị luật pháp trừng trị thích đáng, khó thể tiếp tục làm hại những người vô tội khác trong xã hội. Tha thứ là sự ban ra khi sự trừng phạt của công lý đã được thực thi. Không ai được phép gây tác động đến quyền này của nạn nhân cũng như thân nhân của họ đối với kẻ thủ ác nhằm kêu gọi động tác bãi nại dành cho kẻ thủ ác.

2) Nạn nhân trực tiếp của một cuộc xâm lược trong lịch sử quốc gia cùng thân nhân của họ, bất kể quốc gia xâm lược gây ra thảm cảnh cho họ và thân nhân của họ có đã bị trừng trị thích đáng hay chưa. Quyền báo oán của họ và thân nhân của họ là vĩnh viễn, và quyền tha thứ của họ cùng thân nhân của họ dành cho quốc gia xâm lược hay cá nhân quốc gia xâm lược là bất khả xâm phạm. Không ai được phép gây tác động đến quyền này của nạn nhân cũng như thân nhân của họ đối với quốc gia thủ ác cũng như nhân lực thực hiện hành vi thủ ác của quốc gia thủ ác.

Công dân đối với nghĩa vụ lịch sử tuy có toàn quyền căm thù và toàn quyền báo oán đối với quốc gia xâm lược cùng các cá nhân của quốc gia ấy, nhưng lại không có quyền tha thứ quốc gia xâm lược cùng các cá nhân của quốc gia ấy. Không ai được phép nói về sự tha thứ đối với các quốc gia xâm lược cũng các cá nhân của các quốc gia ấy.

D- Danh Mục Những Kẻ Tiếm Quyền

1) Những người không là công dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nhưng lại luôn mồm nói về lòng hận thù hay sự tha thứ có liên quan đến các cuộc chiến tranh của Việt Nam với các nước khác trong lịch sử Việt Nam.

2) Những công dân không là nạn nhân trực tiếp của tai nạn, tai họa hay thân nhân của nạn nhân, nhưng lại phát ngôn gợi ý nạn nhân/thân nhân nạn nhân thực thi quyền tha thứ hung thủ.

3) Những công dân không là nạn nhân trực tiếp của một cuộc xâm lược trong lịch sử quốc gia, hay thân nhân của nạn nhân, nhưng lại phát ngôn gợi ý nạn nhân/thân nhân nạn nhân thực thi quyền tha thứ quốc gia xâm lược cùng cá nhân thực hiện tội ác của quốc gia ấy.

4) Những công dân có nghĩa vụ tự nhiên đối với lịch sử quốc gia nhưng không biết mình không có quyền nói về hay kêu gọi cho sự tha thứ đối với quốc gia xâm lược cùng cá nhân thực hiện tội ác của quốc gia ấy.

5) Những cơ quan truyền thông nào hỗ trợ loan truyền ý kiến của bốn loại tiếm quyền trên và ý kiến của cơ quan truyền thông khác có hỗ trợ loan truyền ý kiến của bốn loại tiếm quyền trên.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Tham khảo:

Trăm Trứng October 29, 2014

Tội Ác Của Bob Kerrey June 3, 2016

Hillary Clinton Là Con Đĩ Babylon? September 27, 2016

Both comments and trackbacks are currently closed.