Tội Ác Của Bob Kerrey

Tôi Và Fulbright

Hoàng Hữu Phước, MIB

03-6-2016

Screen Shot 06-03-16 at 06.51 PM

1) Google Tiên Lãng:

Trong một bài viết mới đây, tôi có viết rằng tôi chả thèm đọc bài của mấy cái blog vớ vẩn chống Việt (tức chống Cộng, chống Chính phủ Việt Nam, chống Đảng Cộng Sản Việt Nam, chống thể chế chính trị Việt Nam, và cổ súy cho mấy thứ bị Tổng thống Mỹ Obama trong chuyến thăm chính thức Việt Nam đã gián tiếp xem là thứ vớ vẩn vô hiệu vô dụng chẳng hạn như “nhân quyền”).

Điều này cũng có nghĩa là tôi chỉ đọc – và thậm chí chăm chỉ đọc – các bài viết của các blog hay web tích cực như Sách Hiếm, Google Tiên Lãng, Hiệp Sĩ Cưỡi Lừa, v.v., và v.v. Đọc vì..hợp “gu”, đọc để biết các vị này đang “mắng” ai hay việc gì, đọc vì để “né” hầu không viết trùng lặp nội dung, và đọc vì “phục.”  Sao lại không “phục” các vị như Thầy Trần Chung Ngọc và “Cô” Lê Hương Lan cơ chứ?

Cũng nhờ đọc Google Tiên Lãng, tôi biết đến vụ về Bob Kerrey. Và bài viết này không vì “không né” mà vì “hợp gu” nên cách tiếp cận của tôi đối với vụ Bob Kerrey là để làm rõ hơn những góc cạnh khác về Fulbright và về Bob Kerrey. Và do ở Việt Nam cụm từ “nhà sử học” không dành riêng cho người có bằng cấp cao về “Sử”, nên tôi với tư cách một “nhà sử học” thấy mình có thể nói về “Sử” như từ trước đến nay qua bài viết này, đặc biệt nhằm hỗ trợ “nhà sử học” nào chưa dám học tiếng Anh nhưng dám bạo mồm xem tội ác của quân Mỹ không đáng là một phần nên được ghi vào sử sách.

2) Tôi Và Fulbright

Vào những năm 1990 của thế kỷ trước, trong số 27 sinh viên cũ và nhân viên cũ tìm đến tôi để xin tôi giúp một thư tiến cử nộp vào hồ sơ xin học bổng Fulbright, tôi đã nhận giúp đúng 20 người, và cả 20 người đều thành công, được sang Mỹ du học, đã trở về nước, và gần hai thập kỷ nay chưa ai trong số họ phụ lòng tôi khi tất cả đều đi lên với sự nghiệp riêng và không bất kỳ ai chống đối chế độ hay phải đứng trước vành móng ngựa vì trở thành tội phạm.

Lý do để 27 người đó đã xin tôi giúp vì hồ sơ xin học bổng Fulbright cực kỳ chi tiết, đòi hỏi phải được một giáo sư trực tiếp giảng dạy viết lời phê và thư tiến cử, nhưng tất cả các giáo sư phụ trách bộ môn của họ đều (a) không ai viết được tiếng Anh, (b) có thể có vị biết tiếng Anh nhưng không thể nào viết đánh giá sâu sắc và thư tiến cử thuyết phục bằng tiếng Anh, (c) không ai chịu viết thư đánh giá sâu sắc bằng tiếng Việt dù sinh viên lạy lục cầu xin rằng sẽ đem các thư ấy đi nhờ dịch sang tiếng Anh rồi quay lại trình Thầy/Cô ký, và (d) là những vị khét tiếng ở trường đại học ấy do chuyên vòi vĩnh gợi ý sinh viên nên “biết điều” để được đánh giá tốt trong các luận văn tốt nghiệp nên sinh viên e sợ phải tốn kém khủng nếu như hồ sơ học bổng lại là đẳng cấp cao sang cỡ Fulbright cho học vị thạc sĩ.

Tôi đã giúp 20 người vì tôi biết rõ về tư cách của họ. Và tôi viết nhận xét cùng thư tiến cử rồi cho vào phong bì niêm kín (tùy trường hợp có yêu cầu như thế của hồ sơ), trao cho mỗi sinh viên để họ kèm vào đơn xin học bổng. Phong thư dày, vì tôi chưa bao giờ viết ngắn – nhất là viết bằng tiếng Anh. Nội dung tôi viết rất trung thực ngay cả về bản thân mình. Tôi có viết rằng tôi giảng dạy đại học sinh viên ấy nhưng tôi chưa có bằng thạc sĩ hay tiến sĩ, rằng tôi dạy đại học cho sinh viên ấy nhưng không dạy bộ môn mà sinh viên ấy đang xin Fulbright cấp học bổng, hoặc tôi viết rằng người ấy chỉ là học viên lớp tối của tôi tại trung tâm ngoại ngữ nhưng tôi biết rõ tư cách người học viên ấy cùng quá trình làm việc của người ấy tại các công ty khác, hoặc tôi viết rằng người ấy đã là nhân viên của tôi tại công ty nào, hoặc tôi viết đó là đồng nghiệp của tôi tại trung tâm ngoại ngữ nào nhưng là vai vế đàn em của tôi, v.v. Tôi cũng trả lời câu hỏi theo tôi thì người ấy khi trở về Việt Nam với thành tích học tập bên Mỹ về môn ấy môn ấy sẽ đóng góp được những gì cụ thể cho Việt Nam theo sự kỳ vọng của tôi. Tất cả tùy vào sự thật mỗi người ấy là ai. Và dù là phong bì niêm kín hay đánh máy ngay trên hồ sơ thì tôi biết chắc chắc rằng Fulbright phải công nhận – từ tàng thư của họ – một điều là không bất kỳ ai trên thế giới này có thể viết các nhận xét chi tiết với chất lượng ý tứ, ngôn ngữ Anh, và độ dài tương tự như sớ Táo Quân. Đó là lý do dù không đáp ứng đúng yêu cầu “giáo sư thực thụ đảm trách bộ môn mà ứng viên xin Fulbright cấp học bổng theo học thạc sĩ hay tiến sĩ tại Mỹ”, thư đánh giá và tiến cử của “thầy giáo đại học môn Anh Văn có bằng cấp cử nhân hạng trung bình màu xanh lè của Đại Học Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh ” Hoàng Hữu Phước lại khiến Fulbright buộc phải xé rào chấp nhận cấp học bổng cho các anh tài nước Việt.

Tôi đã làm “công tác tư tưởng” đối với các em mà tôi đã viết thư tiến cử rằng (a) học bổng Fulbright là cơ hội quý hơn vàng vì Fulbright chỉ cấp học bổng toàn phần cực kỳ hậu hỉ cho việc theo học chỉ tại những đại học Mỹ nào lừng danh thế giới, (b) người ta cấp học bổng chỉ nhằm tạo nên những người có khả năng khi trở về Việt Nam sẽ trở thành những người có lợi cho Hoa Kỳ, (c) các em được tôi giúp vì tôi kính trọng tư cách của các em cũng như kỳ vọng vào các em đối với những gì các em có thể phục vụ đất nước tốt hơn hay tốt nhất tức những gì bản thân tôi đã không thể thực hiện được do đã không có cơ hội học lên cao như các em, (d) các em phải biết tôi là người như thế nào đối với đất nước này nên đừng bao giờ trở thành thứ ăn bã “dân chủ” hay “nhân quyền” rồi trở thành phạm pháp hay phản quốc, và (e) đừng bao giờ nuôi ý định ở lại Mỹ vì Fulbright cần tất cả trở về Việt Nam để “giúp” Việt Nam thân Mỹ hơn nên do đó trốn ở lại Mỹ sẽ bị chính Fulbright trừng trị.

Đã có những thạc sĩ Việt trở về từ Mỹ nhờ học bổng Fulbright và trở thành những “tù nhân lương tâm”, cứ như thể Fulbright có cấp văn bằng thạc sĩ có giá trị toàn cầu ắt mang tên MCP tức thạc sĩ môn học…“tù nhân lương tâm” vậy, cũng như nếu có “thạc sĩ Luật” nào đó từ học bổng Fulbright về Việt Nam ắt người ta sẽ thấy vị ấy không soạn được dự án Luật nào ngay cả khi có trở thành nghị sĩ Quốc Hội mà trở thành nhà quay phim chuyên rình bấm máy mỗi khi thấy có “xuống đường” ắt để tải lên Facebook minh họa cho lời y đòi “dân chủ” trong “bày tỏ lòng yêu nước”. Và do không thể kỳ vọng gì nơi các luật sư trở về từ học bổng Fulbright, tôi đành dịch bài viết dưới đây của Bill Vann đã đăng cách nay gần 15 năm để bạn đọc biết Bill Vann ngay từ thủa ấy đã viết gì về Bob Kerrey, cũng như từ đó biết luật sư Mỹ John DeCamp đang làm gì khi sang Việt Nam tìm đến Thạnh Phong thu thập chứng cứ để lôi Bob Kerrey ra chịu tội cho cuộc thảm sát ở Thạnh Phong, một việc mà chỉ có luật sư Mỹ học tại Mỹ như John DeCamp mới làm cho nạn nhân các cuộc thảm sát của Hoa Kỳ, đơn giản vì chỉ có các luật sư Mỹ như John DeCamp mới không bị “tẩu hỏa nhập ma” do biết cái nào là cao lương mỹ vị và cái nào là “bã”.

3) Bài Viết Chống Bob Kerrey Của Bill Vann (bản dịch tiếng Việt của Hoàng Hữu Phước)

Việt Nam Khép Cựu Thượng Nghị Sĩ Bob Kerrey Vào Tội Ác Chiến Tranh

Bill Vann
06-6-2002

Chính phủ Việt Nam đã cáo buộc cựu Thượng nghị sĩ Mỹ Bob Kerrey phạm “tội ác chiến tranh” trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Sự khép tội này để đáp lại cuốn tự truyện phát hành gần đây mang tựa đề Thủa Tôi Là Thanh Niên, trong đó Kerrey trốn tránh trách nhiệm của mình đối với một vụ thảm sát được thực hiện bởi một đơn vị Hải quân SEAL (biệt kích Thủy Quân Không-Lục Chiến) mà y đã chỉ huy cách nay 33 năm.

“Chúng tôi hiểu sâu sắc và chia sẻ những nỗi đau, nỗi mất mát vô bờ bến mà các gia đình nạn nhân vô tội phải chịu đựng trong vụ thảm sát Thạnh Phong, những người đã bị thẳng tay hạ sát bởi đơn vị Thủy quân của Bob Kerrey,” Bà Phan Thúy Thanh, phát ngôn nhân của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết. “Dù cho Thượng nghị sĩ Kerrey có nói gì đi nữa cũng không thể thay đổi được sự thật. Chính Kerrey tự thừa nhận nỗi xấu hổ của mình về tội ác mà y đã gây ra”, bà Thanh nhấn mạnh.

Theo một bài báo trên Nhân Dân, tờ nhật báo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao tuyên bố rằng Kerrey và “những ai đã phạm tội ác chiến tranh” nên có những bước thực hiện thiết thực để “giúp hàn gắn những vết thương họ đã gây ra.”

Bài báo lên án Kerrey, người hiện là Chủ Tịch của Đại học New School danh tiếng ở thành phố New York, đã tạo ra các mâu thuẫn trong những tuyên bố trong quyển sách y viết năm ngoái thừa nhận vai trò của y trong vụ thảm sát.

Trong một phần cực kỳ ngắn gọn nêu rằng Kerrey có nói sự việc ấy đã làm thay đổi cuộc đời  mình, Kerrey chỉ nêu một cách mơ hồ về những hành động của chính y vào cái đêm 25-2-1969 ấy khi y chỉ huy đội SEAL Hải Quân tiến vào một thôn ấp nhỏ ở Đồng Bằng sông Cửu Long tại Miền Nam. Y viết: “Người chỉ điểm của tôi dẫn đường. Anh ta tiến đến một ngôi nhà mà anh ta bảo mình tin rằng quân giặc đang ở đấy. Chúng tôi đã được huấn luyện rằng trong những tình huống như thế sẽ là quá mạo hiểm để tiếp tục hành quân vì mấy người này sẽ cảnh báo cho quân trong làng trừ phi chúng ta hoặc giết họ hoặc hủy bỏ nhiệm vụ. Tôi đã không phải ra lệnh bắt đầu giết chóc, song tôi lẽ ra đã có thể ngăn chặn và đã không ngăn chặn.”

Liệu y có ra lệnh hay không? Liệu y có tham gia vào việc giết chóc, hay chỉ là một người ngoài cuộc vô tội? Độc giả bị y bỏ rơi trong bóng tối.

Câu chuyện của Kerrey tránh né sự mô tả chi tiết của sự bắt đầu đẫm máu tấn công vào Thạnh Phong như đã đăng trên tạp chí New York Times năm ngoái. Một chiến binh Hải quân phục vụ dưới quyền Kerrey báo cáo rằng đã có năm người trong căn nhà ấy. Một bô lão chống cự và, theo lời kể lại, Kerrey đã quỳ đè lên lưng cụ để một chiến binh khác cắt cổ họng. Bốn người khác, gồm một phụ nữ và ba trẻ em, bị đưa ra ngoài và sát hại từng người một.

Tiếp tục câu chuyện trong cuốn sách mới của mình, Kerrey nói rằng y và quân của mình tiến vào ngôi làng nơi họ thấy chỉ có phụ nữ và trẻ em, thức dậy bởi sự ồn ào nên ra đứng trước cửa. Có người đã bắn một phát súng, Kerry nói, và toán SEAL đáp trả bằng “một loạt súng chát chúa.”

“Tôi thấy phụ nữ và trẻ em trước mặt chúng tôi bị đạn bắn trúng và xé toạt ra nhiều  mảnh. Tôi nghe thấy tiếng kêu thét của họ và những giọng nói khác trong màn đêm khi chúng tôi rút lui về hướng kênh đào.”

Đây là đoạn mô tả duy nhất về vai trò của Kerrey trong cái đêm mà y cùng quân lính do y chỉ huy đã tàn sát 21 phụ nữ, trẻ em và bô lão.

Một trong những quân lính tham gia cuộc tấn công là Gerhard Klann đã kể lại chi tiết hơn với tờ Times về vụ thảm sát. Ông nhấn mạnh rằng không phát súng nào bắn vào các biệt kích SEAL và chẳng có “màn đấu súng” nào cả. Thay vào đó, quân Mỹ lùa các thường dân vào giữa làng và tàn sát họ trực diện. Những người Việt Nam sống sót từ đó đến nay đã ra mặt kể lại câu chuyện giống như nội dung của Klann hơn là phiên bản của Kerrey về cuộc tấn công ấy.

Kerrey hiện đang lưu diễn trong nước nhằm quảng bá cho quyển tự truyện của y, xuất hiện tại các hiệu sách và tổ chức các cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh và truyền hình. Y đã né tránh các thắc mắc của báo chí về tuyên bố của Chính phủ Việt Nam, nhưng lại giận dữ đáp lại một câu hỏi được nêu ra tại một buổi xuất hiện ở hiệu sách tại Thủ đô Washington.

“Tôi đã nói rõ rồi, và bây giờ tôi nói rõ, rằng cả hai phía đều đã gây ra rất nhiều thiệt hại trong chiến tranh Việt Nam,” y nói. “Bạn phải vượt qua điều này. Tôi tin chắc chắn rằng đa số người dân ở Việt Nam muốn tiếp tục cuộc sống của họ.”

Tuyên bố này phù hợp với những nỗ lực phối hợp của các phương tiện truyền thông và chính trị gia cùng phe với Kerrey để dập tắt những tranh cãi về sự tham gia của y trong vụ thảm sát Thạnh Phong. Tờ New York Times thậm chí còn không nói gì đến tuyên bố của Việt Nam tố cáo Kerrey là tội phạm chiến tranh.

Trong khi lúc đầu làm sống lại những cáo buộc về những hành động tàn bạo, cuốn sách của Kerrey dường như được phát hành như một bài tập kiểm soát thiệt hại, nhằm làm chìm xuồng toàn bộ vấn đề. Trong cuốn hồi ký, Kerrey nói về chính mình như là một nạn nhân chính của sự kiện Thạnh Phong, chứ không phải 21 nạn nhân vụ thảm sát và gia đình của họ.

Việc Kerrey nói rằng “cả hai bên đã gây ra rất nhiều thiệt hại” và rằng người Việt Nam nên “vượt qua điều đó” chẳng khác nào một sự tởm lợm viện dẫn tính chất của cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam và vai trò của mình trong đó. Hơn ba triệu người Việt Nam đã bị sát hại, hầu hết trong số họ là nạn nhân của Mỹ trong các vụ rải bom thảm, bom napalm, và kiểu thảm sát như được thực hiện bởi Kerrey ở Thạnh Phong. Vụ khét tiếng nhất trong số này là do trung úy William Calley thực hiện ở Mỹ Lại, nơi 567 người già, phụ nữ và trẻ em bị sát hại, hầu hết bị bắn chết chung trong một đường mương.

Các cuộc tấn công mà Kerrey tiến hành trong thời gian ngắn y đóng quân ở vùng châu thổ sông Cửu Long là một phần của một chương trình ám sát bí mật của CIA mang tên Chiến Dịch Phượng Hoàng, nhằm tìm và diệt những lãnh đạo chính trị của cuộc đấu tranh giải phóng Việt Nam ở miền Nam. Chiến Dịch Phượng Hoàng gây ra cái chết của hàng chục ngàn người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Mục tiêu trong cuộc tấn công vào Thạnh Phong là nhằm vào vị trưởng thôn, người được biết là có thiện cảm với Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia chứ không phải là chế độ Sài Gòn được Mỹ hậu thuẫn.

Còn về việc “vượt qua việc đó,” hàng triệu người Việt Nam vẫn gánh chịu hậu quả của chiến tranh. Chất độc da cam, các loại thuốc diệt cỏ phun từ máy bay Mỹ tiêu diệt rừng cây hầu khiến các chiến binh giải phóng không còn nơi ẩn nấp, đã làm khu vực rộng lớn của đất nước bị ô nhiểm. Là hậu quả của cuộc chiến tranh hóa học này, chất dioxin độc hại ngấm vào chuỗi thức ăn khiến hàng triệu người bị vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe, bao gồm cả nửa triệu trẻ em bị dị tật bẩm sinh. Washington đã bác bỏ tuyên bố bồi thường, khẳng định rằng không có đủ bằng chứng và, giống như Kerrey, bảo người Việt hãy “vượt qua việc ấy đi.”

Động cơ Kerrey trong đánh bóng vai trò của chính y trong chiến tranh và làm sai lệch bản chất phạm tội của sự can thiệp của Mỹ là hiển nhiên. Là một chính trị gia sáng giá của đảng Dân Chủ, y đã cố giành sự đề cử của đảng Dân Chủ trước đây, và hiện thường được nói đến như một ứng cử viên tổng thống tiềm năng cho năm 2004. Y vẫn chưa ngừng cuộc đua vào Nhà Trắng.

Trên một mức độ rộng lớn thì nhờ có chiến tranh Việt Nam mà Kerrey thăng tiến sự nghiệp chính trị của y, nhận được sự ủng hộ như một vị anh hùng chiến tranh được thưởng huân chương – y đã được trao Huân Chương Sao Đồng cho chiến công láo khoét về cuộc thảm sát ở Thạnh Phong được tung hê rằng những kẻ bị giết toàn là “Việt Cộng” – và Huy Chương Danh Dự Của Quốc Hội cho trận đột kích sau đó khi một quả lựu đạn làm y mất phần dưới gối của một bên chân. Trong khi các cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam phản đối chiến tranh đã ném vất bỏ huy chương qua hàng rào Nhà Trắng để phản đối sự xâm lăng của Mỹ, thì Kerrey sau khi giải ngũ khỏi Hải Quân Hoa Kỳ đã đến Washington nhận các giải thưởng từ Richard Nixon.

Kerrey giờ đây tuyên bố đã từ lâu luôn bị ám ảnh bởi cuộc chạm trán đẫm máu ở Thạnh Phong, nhưng y cứ ngậm tăm cho tới khi năm ngoái xuất hiện các sự tiết lộ về vai trò của y. Trong các chiến dịch chính trị thành công của mình cho ghế Thống Đốc Bang Nebraska và một ghế trong Thượng Viện, cũng như sự thất bại trong cuộc chạy đua giành sự đề cử của đảng Dân Chủ năm 1992, y đã dựa hẳn vào một quá trình tham chiến đã miêu tả xằng bậy gọi một hành động tàn bạo chống lại thường dân không vũ trang là một hành động quả cảm anh hùng.

John DeCamp, một đồng nghiệp cũng là chính trị gia Bang Nebraska và cũng là một cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, cựu thượng nghị sĩ bang, đã đến thăm Thạnh Phong hồi đầu năm nay, gặp gỡ các gia đình của những người thiệt mạng trong vụ thảm sát. Ông đã kêu gọi Bộ Quốc Phòng mở một cuộc điều tra đối với cuộc tấn công, và đe dọa sẽ thay mặt những người sống sót để khởi kiện đòi bồi thường. Ông nói rằng Kerrey đã từ chối các đề nghị giúp lập nên một quỹ hỗ trợ những người sống sót.

Kerrey đã bác bỏ và gọi các yêu cầu của DeCamp là “vô lý và nực cười.”

Tại sao như vậy? Thành viên của quân đội Serbia đang phải đối mặt với các phiên xử tội ác chiến tranh tại The Hague vì đã thực hiện tội ác không ghê gớm như Kerrey đã làm ở Việt Nam. Đối với vấn đề đó, binh sĩ quèn và vệ binh tuy chỉ “làm theo mệnh lệnh” của quân SS Đức Quốc Xã vẫn phải đối mặt với lệnh trục xuất khỏi nước Mỹ và bị xét xử dù đã 60 năm sau khi gây ra tội ác.

Vấn đề thực sự là vì sao dù cho có sự phơi bày sự dính líu của Kerrey trong vụ thảm sát máu lạnh cùng hành vi che dấu sau đó của y, lại có quá ít yêu cầu mở cuộc điều tra. Tại sao vẫn chưa có một phản đối kịch liệt đòi bãi nhiệm Kerrey khỏi chức vụ chủ tịch New School, một đại học nổi tiếng trong quá khứ về truyền thống giáo dục dân chủ và tiến bộ của nó?

Sau những tiết lộ đầu tiên, hội đồng quản trị của New School mới công bố “hỗ trợ vô điều kiện” họ dành cho Kerrey mà không cần có cuộc điều tra độc lập nào dù nhỏ nhất. Họ vẫn lặng thinh đối với các cáo buộc gần đây của Chính phủ Việt Nam cũng như đối với việc làm giả tài liệu lịch sử trong cuốn sách của Kerrey.

Việc nín thinh của các đồng sự quanh Kerrey bởi phe nhóm chính trị bao gồm những kẻ từng tự gọi mình là những người tự do và phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Nam Á đã có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Các nỗ lực miêu tả một tội phạm chiến tranh, xem y là “nạn nhân” chẳng thua gì những người mà y đã giết chết, không phải là kết quả của sự cảm thông dành cho một cá nhân.

Thay vào đó, giai cấp cầm quyền đã chộp lấy vụ việc của Kerrey làm cơ hội để giáng một đòn mạnh vào di sản của sự phản đối rộng khắp chống lại sự xâm lược bằng quân sự của Mỹ, với số thương vong khủng khiếp của nó nhằm vào thường dân vô tội, cũng như sự hy sinh tàn bạo những chiến binh Mỹ đã được biết đến dưới tên gọi “hội chứng Việt Nam”.

Hơn thế nữa, trong khi Kerrey bị cáo buộc là một cá nhân phạm tội ác chiến tranh, thì vẫn còn có cả phe nhóm chính trị và quân đội – từ Henry Kissinger cho đến Tướng William Westmoreland cùng cựu giám đốc CIA Richard Helms – những kẻ đã trực tiếp ra lịnh thực hiện những tội ác lớn chống lại nhân loại mà chưa bao giờ được đem ra xét xử.

Với sự bùng nổ của chủ nghĩa quân phiệt Mỹ sau vụ 11 tháng 9, vụ Kerrey mang lại ý nghĩa chính trị thậm chí còn to lớn hơn. Lập luận bao che tội ác mà y đã gây ra – cùng vô số những hành động tàn bạo khác đã gây ra trong hơn ba thập kỷ trước – và cố gắng để hợp pháp hóa chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam sẽ giúp mở đường cho những cuộc tàn sát mới và khủng khiếp hơn của quân đội Mỹ.

Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam buộc Kerrey phạm “tội ác chiến tranh” và nỗ lực của y trong cuốn tự truyện của mình để một lần nữa bao che cho vai diễn của mình, phải dẫn đến lời kêu gọi hành động của những sinh viên và giảng viên tại New School, những người coi trọng sự thật lịch sử và phản đối chủ nghĩa quân phiệt .

Yêu cầu bãi nhiệm Kerrey khỏi vị trí Chủ tịch của New School là một biện pháp cần thiết để sạch hóa xã hội: cho phép một tên tội phạm chiến tranh làm người đứng đầu một tổ chức hàn lâm lớn chỉ làm hạ phẩm giá của trường đại học và làm ô uế bầu không khí trí tuệ nói chung.

Chiến dịch đòi sa thải Kerrey, tuy nhiên, phải được dẫn dắt không chỉ ở những hành động của một cá nhân. Nó phải được sử dụng như một phương tiện nhằm giáo dục các thế hệ mới của sinh viên, người lao động, và giới trẻ đối với những bài học thật sự về Chiến Tranh Việt Nam, chuẩn bị cho họ chống lại các tội ác chiến tranh mới tại Afghanistan, Colombia, Iraq, và những nước khác.

*********

4) Kết Luận Về Bob Kerrey

Trong bài viết tựa đề Bức Tâm Thư Gửi Người Dân Việt “Thiệt” – Nhân Nghe Về Huy Đức đăng trên Emotino, tôi có đưa hình ảnh sau về một cuộc tàn sát khác ở Bến Tre, và hình ảnh cũng do một phóng viên Mỹ thực hiện để tố cáo tội ác của quân đội Hoa Kỳ:

……..Như vậy, nếu ghi theo kiểu “tuẫn tiết” của Huy Đức thì các bức tranh trên ắt sẽ được chua với nội dung khôi hài, bẻ gãy ngòi bút, xé toạt tờ giấy, bôi nhọ sự thật lịch sử mà việc bôi nhọ sự thật lịch sử chẳng khác nào tự trây trét phân lên mặt nhóc Huy Đức. Đó là chưa kể sự thật do các “phóng viên chiến trường” vào sinh ra tử của nước ngoài ghi lại nhưng luôn bị tay “nhà báo bàn giấy nhàn cư vi bất thiện” Huy Đức ngó lơ, chẳng hạn như cô gái sau tên Lê Thị Nhiếp ở làng Bình Khánh, Bến Tre, đã kể cho phóng viên Jones Griffiths biết Cô đã bị trúng bom napalm Mỹ lúc 3 giờ chiều ngày 09-4-1964 dù làng Cô không có Việt Cộng. Chẳng qua vì muốn “dương Đông kích Tây” nên không quân Việt Nam Cộng Hòa đã ném bom dữ dội tiêu diệt làng Cô để che dấu sự thật là đang thả biệt kích xuống làng bên cạnh để tấn công bất ngờ Việt Cộng đang thực sự có mặt tại đó. Cô nói Cô chịu đựng được cơn đau nhức dồn dập ngoài da và thấu xương, nhưng Cô không sao chịu đựng nỗi ký ức về hàng trăm xác chết trẻ em làng Cô chỉ trong một trận bỏ bom ngày đó. Tại sao không, nếu vị tướng tá có tài cầm quân với chiến thuật “dương Đông, kích Tây” ấy đã “tuẫn tiết” và có tên trong danh sách anh hùng anh dũng Việt Nam Cộng Hòa của Huy Đức?

Screen Shot 06-03-16 at 07.35 PM

…..

Phát Ngôn Nhân của Bộ Ngoại Giao Việt Nam khẳng định Bob Kerrey đã phạm tội ác chiến tranh trong cuộc thảm sát ở Thạnh Phong tỉnh Bến Tre. Việt Nam chưa kiện Bob Kerrey ra tòa án diệt chủng. Nhưng Việt Nam cũng chưa từng hủy các cáo buộc Bob Kerrey phạm tội ác chiến tranh.

Khi bị lôi ra ánh sáng, Bob Kerrey qua quyển tự truyện của y và các trả lời phỏng vấn đã phạm thêm năm trọng tội gồm

(a) Đối với nhân dân Mỹ: qua việc ngụy tạo tình tiết đánh bóng bản thân đã nhục mạ ý nghĩa cao quý của các huân chương quốc gia và huy chương quốc hội vốn chỉ dành cho các hành động anh hùng dũng cảm vị quốc vong thân. Bob Kerrey không thể không bị Hoa Kỳ trừng trị.

(b) Đối với nhân dân Mỹ: qua việc ngụy tạo tình tiết đánh bóng bản thân đã hợp pháp hóa các hành vi gây tội ác chống loài người, khiến giới trẻ Hoa Kỳ nhập ngũ sẽ lại vướng vào các trọng tội tương tự, có thể đưa Hoa Kỳ vào tình thế nghiêm trọng trước phản ứng của phần còn lại của nhân loại. Bob Kerrey không thể không bị Hoa Kỳ trừng trị.

(c) Đối với Việt Nam: y tuyên bố rằng cả hai bên – tức Mỹ và “Việt Cộng” – đều đã gây ra những thiệt hại to lớn như nhau, với ngụ ý cả hai đều gây ra những cuộc thảm sát. Đây là lời nói xuẩn ngốc, điên rồ, phạm thượng. Bob Kerrey dứt khoát phải bị Việt Nam trừng trị.

(d) Đối với gia đình nạn nhân cuộc thảm sát Thạnh Phong: y dám ngụ ý rằng y mới là nạn nhân của vụ thảm sát Thạnh Phong chứ không phải 21 người Việt bị y sát hại cũng như gia đình của 21 người này. Đây là lời nói xuẩn ngốc, điên rồ, phạm thượng. Bob Kerrey dứt khoát phải bị Việt Nam trừng trị.

(e) Đối với gia đình các nạn nhân cuộc thảm sát Thạnh Phong: y dám cười cợt gọi đề xuất của luật sư DeCamp đòi phải bồi thường cho các gia đình của 21 nạn nhân cuộc thảm sát Thạnh Phong là “vô lý và buồn cười”. Đây là sự ngạo mạn, vô phương cứu chữa, xuẩn ngốc, điên rồ, phạm thượng. Bob Kerrey dứt khoát phải bị Việt Nam trừng trị.

Với tư cách người đã được Fulbright kính trọng – qua việc chấp nhận cấp học bổng cho những người Việt Nam nào có thư đánh giá và tiến cử của tôi, giáo viên Cử Nhân Anh Văn – tôi có lời khuyên ngắn gọn đến Fulbright rằng với thực tế nhiều người có học bổng Fulbright trở thành những “tù nhân lương tâm” do chống chính phủ Việt Nam sau khi “vinh quy bái tổ”, Fulbright nên khôn khéo dấu cái đuôi của mình bằng cách hãy thay thế Bob Kerrey bằng người khác. Trường hợp Đại học Fulbright cần phải có “sớ Táo Quân” tiếng Anh của tôi mới chịu thay thế Bob Kerrey thì cứ lục kiếm tàng thư của chính Fulbright sẽ biết phải gởi yêu cầu ấy đến đâu.

Cựu chiến binh nào của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam cũng có thể trở lại Việt Nam thăm chiến trường xưa và làm tất cả những gì mà sự ân hận có thể được diễn đạt bằng lý trí và với khả năng nhận thức sai trái của bản thân trong quá khứ thể hiện bằng sự thực tâm tưởng niệm các nạn nhân, bằng những lời nói đậm ấm tình người, chứ không nhất thiết phải bằng những đóng góp tài chính cụ thể. Vì người Việt rộng lượng và độ lượng, giàu tình cảm và dồi dào sự tha thứ như đã luôn thể hiện từ xưa đến nay.

Bob Kerrey không được phép bước chân vào Việt Nam do (a) đã bị Chính Phủ Việt Nam cáo buộc tội ác chiến tranh; (b) xuyên tạc, xúc xiểm, xúc phạm Việt Nam; và (c) xuyên tạc, xúc phạm, xúc xiểm các nạn nhân của vụ thảm sát ở Thạnh Phong.

Bob Kerrey không được phép bước chân vào Việt Nam vì y chỉ là một tên man rợ không đáng được dành cho sự tiếp đón chỉ dành cho con người.

Nhà Sử Học Hoàng Hữu Phước, Thạc Sĩ Kinh Doanh Quốc Tế,  Nhà Lập Pháp – Nghị Sĩ Đương Nhiệm Của Quốc Hội Việt Nam Khóa XIII

Nguồn tham khảo & đọc thêm:

Nguồn bài viết tiếng Anh của Bill Vann trên trang web của tổ chức WSWS của Anh Quốc: https://www.wsws.org/en/articles/2002/06/kerr-j06.html

Both comments and trackbacks are currently closed.