Sự Thật Về Sức Mạnh Kinh Tế Thần Kỳ Của Nhật Bản Và Chân Giá Trị Của Sức Mạnh Kinh Tế Thần Kỳ Của Việt Nam

Hoàng Hữu Phước, MIB

24-5-2019

Bài viết sau đây được đăng trên trang mạng doanh nhân emotino lúc 4 giờ sáng ngày 08-01-2010 với mã số 18358.

Việc đăng lại hôm nay chỉ để chứng minh nếu một người thực sự là thạc sĩ/tiến sĩ, người ấy dứt khoát không sao dứt được niềm say mê nghiên cứu tài liệu nước ngoài và viết lách vì nghiên cứu và viết lách là đặc điểm của đẳng cấp luôn để sẵn tua mão bên phía trên vai trái của mình. Nếu lãnh đạo cơ quan của bạn là thạc sĩ/tiến sĩ mà hắn ta/ả ta chẳng hề yêu nghiên cứu viết lách hàn lâm để sẻ chia hành trạng tư duy chuyên nghiệp của mình với tập thể, mà chỉ khoái làm con nít cà tửng cà tửng trên Facebook và/hay Instagram hoặc chỉ khoái là đại gia tức đi siêu xe ở siêu hang quen siêu gái khoái siêu bợm hưởng siêu quyền (cho xe xồng xộc vào đón vợ/chồng ngay chân cầu thang máy bay dù vợ/chồng không phải là tổng thống/đệ nhất phu quân/đệ nhất phu nhân), thì bạn có thể chắc chắn một tỷ phần trăm rằng bằng cấp thạc sĩ/tiến sĩ của hắn ta/ả ta có được là do nhờ người thi hộ, nhờ trường không tên tuổi cấp cho miễn có chường mặt mũi đủ số giờ ngồi trong lớp, nhờ được Gà Rừng cung cấp theo giá rao trên mạng, hoặc xem bằng cấp là đồ trang sức để “cho có với người ta”, hoặc thấy mình thấp kém ngỡ có bằng cấp sẽ đương nhiên biến thượng lưu, hoặc nhờ “phe ta” ở ngay trong nội tình phe nhóm tiến sĩ ở Việt Nam chấm đạt rồi cấp bằng theo chỉ đạo của hệ thống chính trị để ngồi vào các chiếc ghế cao quyền lực kinh-tài của chế độ để sau đó tạo điều kiện cho các cơ quan công tố/công an/toà án/trại giam có nhiều việc để làm để trau giồi tay nghề cho hoàn hảo hơn.

Ắt không cần nhắc thêm rằng bài lập lại dưới đây –như rất nhiều bài đăng lại khác – được viết trước khi tác giả Hoàng Hữu Phước có danh-vị-trọn-đời “Nghị Sĩ Khóa XIII” của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Sự Thật Về Sức Mạnh Kinh Tế Thần Kỳ Của Nhật Bản Và Chân Giá Trị Của Sức Mạnh Kinh Tế Thần Kỳ Của Việt Nam

Hoàng Hữu Phước, MIB

08-01-2010

I. Dẫn Nhập: Các Ngộ Nhận Về Sức Mạnh Kinh Tế Thần Kỳ Của Nhật Bản

Thường thì khi nói về Nhật Bản, nền kinh tế đứng hàng thứ hai trên thế giới, người Việt Nam hay nghĩ đến đất nước hứng chịu hai quả bom nguyên tử đầu tiên và duy nhất – tính đến ngày 08 tháng Giêng năm 2010 – của nhân loại, đến cảnh điêu tàn của Hiroshima và Nagasaki, đến sự đầu hàng của Nhật cùng với sự sụp đổ của Khối Trục Đức-Ý-Nhật của Đệ Nhị Thế Chiến, đến thương hiệu Japan chiếm lĩnh vị trí độc tôn đồng nghĩa với hàng công nghiệp cao chất lượng cao – xóa sổ vĩnh viễn sự kiêu hãnh của Đức và dập tắt ngay cả khát vọng mong manh vươn lên của Hoa Kỳ, và đến vị trí thống lĩnh kinh tế toàn cầu. Tất cả dẫn đến sự cảm phục, thán phục, rồi thần phục, cứ như dân tộc Nhật ấy thật sự là con Trời, không biết rằng còn có nhiều sự thật khác đã không được bàn đến, khiến những sự thật được nêu bấy lâu nay đưa người ta đến với ngộ nhận. Một đất nước chỉ có hai thành phố bị san thành bình địa chứ không phải từ Bắc Chí Nam từ Đông sang Tây, từ đảo lớn đến đảo nhỏ bị san thành bình địa, nên khác rất xa cảnh hoang tàn tang thương ngẫu lục người ta hay tưởng tượng trong cảm thương. Một đất nước đã bạo tàn thu tóm của cải khổng lồ của các quốc gia trải dài từ Đông Bắc Á – kể cả Trung Quốc – đến Đông Nam Á – có cả Việt Nam – đem về chính quốc, thì việc hai thành phố bị bom nguyên tử tàn phá cũng giống như một tên kẻ cướp chở chuyên về quê nhà vô thiên lủng ngọc ngà châu báu, mua sắm đất đai đồng ruộng mênh mông thẳng cánh cò bay, tậu biệt thự và địa ốc cao cấp khắp chốn, thì cái garage chứa hai chiếc Rolls-Royce Phantom và Rolls-Royce Ghost có cháy rụi thành Rolls-Royce Spectre và Rolls-Royce Spook cũng khó làm tên kẻ cướp nghèo đi. Duy chỉ có chuyện đầu hàng Mỹ mới luôn là nỗi nhục nhã của một dân tộc hãnh diện với tinh thần võ sĩ đạo: nhanh chóng đầu hàng Mỹ chỉ vì sợ sự lan tỏa của chủ nghĩa cộng sản sau sự phản công vũ bảo của Hồng Quân Liên Xô đánh bật Nhật Bản khỏi Mãn Châu, giải phóng cả khu vực rộng lớn Đông Bắc Á, ắt sẽ cùng Hồng Quân Trung Quốc vượt biển chiếm đóng Phù Tang.

II. Sự Thật Về Sức Mạnh Thật Sự Của Nhật Bản

A) Đôi Dòng Lịch Sử

1- Nhật và Khối Trục Quốc Xã Đức- Phát Xít Ý- Quân Phiệt Nhật

Trước sự lấn lướt về ý thức hệ cộng sản đang chiếm thế thượng phong và sự lớn mạnh của Liên Xô, Quốc Trưởng Hitler của Đức Quốc đã cùng Thủ Tướng Nhật Bản Hiranuma k‎ý hiệp ước năm 1936 cam đoan bảo vệ nhau nếu Liên Xô tấn công, và Ý cùng tham gia k‎ý kết năm 1937 để dựa oai hùm, tạo thế ba chân vạc với Quốc Xã Đức – Phátxít Ý – Quân Phiệt Nhật. Song, với việc Hitler khôn ngoan k‎ý riêng với Liên Xô vào năm 1939 một hiệp định không gây hấn lẫn nhau, khối Trục chuyển hướng với hiệp định mới vào tháng 9/1940 cùng nhau chống Mỹ. Khi thấy anh-em-ba-chân-vạc Đức chiếm Pháp Quốc lập nên chính phủ Vichy, Nhật Bản thừa cơ hội xua quân “hưởng sái” chiếm đoạt Đông Dương thuộc Pháp (gồm Việt Nam, Lào, và Cam-bốt tức Cambodia)

2- Vì Sao Nhật Xâm Lược Đông Nam Á và Tấn Công Trân Châu Cảng

Năm 1895 sau khi dễ dàng đánh bại Trung Quốc, chiếm cứ Đài Loan, Nhật Bản bắt đầu tấn công Liên Xô dành quyền kiểm soát bán đảo Hàn Quốc và Mãn Châu, chiếm được Nam Mãn Châu và bán đảo Sakhalin, tạo nên tâm l‎ý tự tin bá quyền nước lớn, cho mình có bổn phận bảo vệ các quốc gia Châu Á khỏi chủ nghĩa thực dân đế quốc phương Tây. Từ năm 1937, Nhật xâm lược đánh chiếm Bắc Kinh, Thượng Hải, Nam Kinh, và thâu tóm gần hết vùng lãnh thổ Đông Bắc Trung Quốc, đặt 300 triệu dân Trung Quốc ở những nơi chiếm đóng dưới sự cai quản bạo tàn của 600 ngàn quân Nhật. Sự tiến quân xuống phương Nam đến vùng Đông Nam Á chỉ là chuyện của thời gian.

Thấy Nhật đã nuốt gọn Đông Dương, Tổng Thống Mỹ Roosevelt kêu gọi thế giới cấm vận nhiên liệu với Nhật Bản, nhằm buộc Nhật rút quân hoàn toàn khỏi Trung Quốc và Đông Dương, khiến Nhật quyết định tấn công các thuộc địa giàu dầu mỏ tại Đông Nam Á của Anh Quốc, Hà Lan, và Hoa Kỳ (như ở Mã Lai, Indonesia, Philippines) đồng thời tung 535 chiến đấu cơ xuất kích từ 6 hàng không mẫu hạm đánh phủ đầu răn đe Mỹ tại căn cứ hải quân Mỹ ở Trân Châu Cảng (Pearl Habour, đảo O’ahu, Hawaii) ngày 07/12/1941, và Cuộc Hành Quân Mật Danh Z này đã làm Mỹ mất 18 chiến hạm, 188 chiến đấu cơ, 2.402 sĩ quan và binh sĩ hy sinh, và 1.282 quân nhân trọng thương, trong khi số thiệt hại của Nhật ở mức tối thiểu, với 29 phi cơ bị bắn rơi, mất 5 tàu ngầm tiếp tế, 65 binh sĩ thương vong, và một thủy thủ bị bắt làm tù binh. Cuộc tấn công này đẩy nước Mỹ trực tiếp tham dự vào Đệ Nhị Thế Chiến.

3- Kế Hoạch Marshall: Mỹ và Châu Âu

Kế hoạch Marshall được đặt theo tên của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ George Marshall, là kế hoạch tái thiết Châu Âu trong thời gian 1948-1952 với gói viện trợ 13 tỷ USD mà Hoa Kỳ dành cho Áo, Bỉ, Luxemburg, Đan Mạch, Pháp, Tây Đức, Hy Lạp, Iceland, Ái Nhĩ Lan, Ý, Hà Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh Quốc, và Thổ Nhĩ Kỳ, nhằm triệt tiêu mầm mống trỗi dậy đầy hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản tại các nước này sau Đệ Nhị Thế Chiến. Và hàng hóa của Hoa Kỳ, quốc gia chẳng những chẳng có tổn hại đáng kể nào trong Thế Chiến mà còn hưởng lợi từ sự điềm nhiên tọa thị của bạng duật tương trì để trở thành nhà cung ứng hàng tiêu dùng và nguyên liệu hàng đầu thế giới, được bán cho các quốc gia nhận viện trợ từ Kế Hoạch Marshall.

4- So Sánh Một Kế Hoạch Marshall Nhỏ: Mỹ và Nhật Bản với Douglas MacArthur

Đại tướng Douglas MacArthur chỉ huy quân đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương bắt đầu tổng tấn công Nhật giải phóng lần lượt các đảo New Guinea, New Britain, Solomons, Admiralty Islands, và Philippines, trước khi bệ vệ chứng kiến Nhật k‎ý văn kiện đầu hàng trên chiến hạm Missouri ngày 02-9-1945, và đổ quân chiếm đóng Nhật Bản, thực hiện các chương trình cải cách nhằm biến Nhật thành một quốc gia theo thể chế dân chủ. Thế nhưng cuộc chiến tranh Nam-Bắc Hàn với sự tham dự chủ lực của MacArthur từ năm 1950 đã tạo cơ hội cho Nhật Bản trở thành hậu phương cung cấp hàng hóa và nguyên liệu chủ lực cho Liên Hợp Quốc và bốn năm của cuộc chiến đã đem lại cho Nhật Bản một nguồn thu khổng lồ mà không bất kỳ quốc gia Tây Âu nào hưởng được tương tự từ Kế Hoạch Marshall. Ngoài ra, cuộc chiến Nam-Bắc Hàn cũng làm Hoa Kỳ nhận ra một tiềm tàng nguy hiểm của sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản nên gia tăng đầu tư vào Nhật Bản trong thời gian chiến tranh Hàn Quốc, đồng thời khôn ngoan cách chức MacArthur khi vị tướng này chưa đánh thắng Bắc Triều Tiên đã vội tuyên bố tấn công Trung Hoa lục địa để tiêu diệt Trung Cộng.

5- Cùng Một Giuộc

Học giả Noam Chomsky, người mà các sinh viên Ban Anh Văn ở Việt Nam đều học biết các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học của Ông – nhưng ít ai biết Ông đã đến được Hà Nội trong thời gian chiến tranh Chống Mỹ của Việt Nam ở cao trào khốc liệt, để nói lên tiếng nói nhà trí thức Mỹ ủng hộ nước Việt Nam của Tổng Thống Hồ Chí Minh, đã mĩa mai rằng số tiền Hoa Kỳ viện trợ cho Pháp và Hà Lan đã được hai nước này dùng cho đại cuộc tái xâm lược Đông Nam Á, mà điển hình là Hà Lan tái chiếm Indonesia, cùng với quân Anh nhảy dù chiếm thủ đô Jakarta và quân Úc đổ bộ giải giới quân Nhật, dù Indonesia đã tuyên bố độc lập ngày 17/8/1945 sau khi quân Nhật đầu hàng đồng minh. Những trận chiến đẫm máu kéo dài cho đến khi quân Hà Lan k‎ý văn kiện công nhận nền độc lập của Indonesia ngày 02-11-1949, chấm dứt sự hiện diện của các đoàn quân ngoại bang vừa thoát thảm họa Đức Quốc Xã, vừa nhận tiền của Mỹ đã ngay lập tức xua quân trở lại nhằm áp đặt nền đô hộ lên toàn Đông Nam Á, thậm chí một quốc gia loại cò con theo đóm ăn tàn như Hà Lan cũng gây nợ máu với nhân dân Indonesia, chứng tỏ dù những quốc gia Tây Âu này là nạn nhân của chủ nghĩa Quốc Xã Đức hay Phát-xít Ý, vẫn không có một ranh giới định hình rõ nét giữa họ với những kẻ tội đồ gây ra Thế Chiến Thứ II, có chăng chỉ là vị trí bọn cướp thắng với bọn cướp thua.

B) Sức Mạnh Thật Sự Của Nhật Bản – Những Gì Việt Nam Không Có, Muốn Có, và Không Muốn Có

1- Tài Chính và Cơ Hội Từ Kẻ Thù

Người dân Nhật không thể nào quên mối thâm thù khi phải đầu hàng Hoa Kỳ và để quân Mỹ đổ bộ chiếm đóng xứ sở Mặt Trời Mọc. Nhưng không thể phủ nhận chính sự chiếm đóng của Hoa Kỳ và việc MacArthur xóa sổ quân đội Thiên Hoàng đã giúp đất nước Mặt Trời Mọc tiết kiệm được ngân sách khổng lồ lẽ ra phải chi ra cho quân đội và chiến tranh, khiến tổng sản lượng quốc gia GNP của Nhật tăng đến 73% (trong khi Tây Đức tăng 28,5%, Pháp 18,7%, Anh 12,7%  và Mỹ 8%) và Nhật hàng năm chỉ sử dụng 1% của GNP cho chi phí của Cục Phòng Vệ. Ngoài ra, dù bảo hộ mậu dịch cao, Hoa Kỳ vẫn mở rộng cửa thị trường cho Nhật, giúp Nhật trở thành đối tác lớn với các ưu đãi thuế quan, được mua nhiên liệu và nguyên liệu với giá thấp để phát triển công nghiệp Nhật Bản. Thêm vào đó những số tiền khổng lồ Mỹ trả trước để đặt hàng phục vụ cuộc chiến ở Hàn Quốc chiếm đến 27% tổng kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản, khiến tài lực của quốc gia này được ưu ái gia tăng mạnh mẽ và nhanh chóng. Chính nhờ có cơ hội này từ kẻ thù, Nhật Bản có được đà cất cánh bay cao về kinh tế trong những năm sau đó.

2- Quyết Tâm Của Chính Phủ

Chính phủ Nhật đã có quyết tâm cung cấp tài chính cho nền kinh tế và những sự hợp tác giữa nhà nước và doanh nghiệp, hình thành một nền kinh tế dựa vào xuất khẩu, trên cơ sở xuất khẩu tối đa hàng hóa sản xuất được, và ngoại tệ nhận về tập trung cho mua sắm công nghệ, đầu tư quản trị, nhập khẩu nguyên liệu và năng lượng để gia tăng phát triển kỹ nghệ, trong hoàn cảnh đất nước không có nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất công nghiệp và thậm chí không có trữ lượng dầu mõ nào (trừ vài phát hiện có mức độ nhỏ sau này). Các ngân hàng tư nhân và nhà nước sử dụng tiền tiết kiệm cá nhân của dân để cho các doanh nghiệp vay với lãi suất ưu đãi. Để đầu tư vào kỹ nghệ. Việc tập trung phát triển doanh nghiệp tư nhân và hình thành các tập đoàn độc quyền zaibatsukeiretsu nhằm hạn chế cạnh tranh và gia tăng thế mạnh trên thị trường quốc tế là một số đóng góp mang tính nhà nước trong việc đem lại cho Nhật Bản cơ sở có được sức mạnh kinh tế thần kỳ.

3- Quyết Tâm Của Người Dân

Đáp lại lời kêu gọi của Chính Phủ hy sinh tất cả để đất nước chiếm lĩnh vị trí kinh tế cao trên thế giới, người dân Nhật đã chấp nhận mua hàng tiêu dùng sản xuất trong nước với giá cao cắt cổ, trong ‎ý thức chính họ mới là giống dân cao qu‎ý nhất trong giống da vàng và thậm chí cao hơn cả dân da trắng, không đoái hoài đến hàng hóa rẻ mạt của nước ngoài. Sự cam chịu khủng khiếp này của thời hậu chiến đã hình thành nơi người Nhật đức tính trầm tĩnh, không nói về những lo lắng, căng thẳng, tức giận, hay về xung khắc tôn giáo, khi toàn dân là một, đồng lòng mua hàng nội hóa với giá cao để các công ty Nhật có thu nhập cao đủ bù đắp cho họ yên tâm bán hạ giá sản phẩm của mình trên thị trường hải ngoại, từ đó chiếm lĩnh thị trường thế giới.

Ngoài ra, người lao động Nhật chấp nhận lương thấp, đổi lại được hưởng cơ chế làm việc trọn đời, được huấn luyện nghề nghiệp, về sau góp phần quan trọng vào sự cất cánh về kinh tế của nước Nhật thời hậu chiến. Ngoài ra, rất đông dân chúng Nhật chấp nhận làm bán thời gian tại vô số các xí nghiệp nhỏ, không có an sinh xã hội hay bất kỳ quyền lợi nào khác, nhận lương bèo, tạo điều kiện cho các công ty lớn như Toyota và Sony sử dụng dịch vụ của các xí nghiệp nhỏ này với chi phí rẻ mạt, giúp chính Toyota và Sony và các công ty lớn thu lợi nhuận nhiều hơn và nhanh hơn, hình thành tư bản.

4- Giai Thoại Samurai

Samurai là những quân nhân kỵ binh dũng cảm, quên thân, phục vụ hết lòng chủ soái của mình, đích thị là những người xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Đa số các samurai do chiến công hoặc đơn giản vì sự phục tùng của họ có ý nghĩa quan trọng với sự tồn tại của các sứ quân nên trở thành những nhà qu‎ý tộc. Ở đây, tinh thần samurai được cho là hòa quyện vào ý chí của người Nhật trước các biến động: hết lòng phò tá quân vương phục vụ chiến tranh, và lúc chiến bại thì hết lòng phục vụ nước nhà cho một danh dự đoạt lại hay một danh dự mới khác. Đối với Đệ Nhị Thế Chiến thì việc bị giải giáp và bị cấm có quân đội riêng đã đưa người Nhật từ cuộc chiến chiếm đoạt lãnh thổ sang cuộc chiến chiếm lĩnh thị trường bằng hy sinh mọi giá.

5- Giai Thoại Ninja

Trong chiến tranh chống Mỹ, người ta thường nghe nói nhiều đến những chiến sĩ đặc công (thời trước gọi là “đặc công Việt Cộng”), những siêu nhân xuất quỷ nhập thần, đến độ cảnh sát Sàigòn khi điều tra hiện trường phát hiện mảnh lựu đạn loại tự sát (loại rút chốt là nổ ngay, không phải loại tấn công có thể ném trong năm giây) là gấp sổ lại ngay và kết luận do đặc công Việt Cộng gây ra vì chỉ có đặc công Việt Cộng mới có khả năng dùng lựu đạn tự sát để sát thương kẻ thù rồi…phi thân tẩu thoát toàn vẹn. Ninja là những tay đặc công mặc trang phục toàn nâu sậm, chuyên lợi dụng đêm tối để ngụy trang đột nhập, do thám, dùng kiếm và phi tiêu để ám sát theo lịnh của chủ nhân. Và dù không thuộc đẳng cấp qu‎ý tộc samurai, các ninja nhất nhất thực hiện mệnh lệnh và bắt chước các samurai tự sát khi kế hoạch bất thành để bảo vệ bí mật về chủ nhân. Tuy không là quân nhân và chỉ là các sát thủ, không đáng để ngợi ca, song do dân Nhật có cái hay là không bao giờ dè bỉu chê bai đồ bản xứ và ra sức đánh bóng thương hiệu để thống trị thế giới nên cái tinh thần ninja cũng được truyền bá như một điểm cao qu‎ý của đức tính phụng sự và hy sinh cá nhân cho nghĩa lớn.

6- Giai Thoại Du Học Sinh

Đã có nhiều truyện truyền khẩu mang tính giai thoại về những du học sinh Nhật tại Hoa Kỳ thời hậu chiến, chẳng hạn có quá nhiều ca tử vong kiểu hara-kiri (mổ bụng tự sát) trong giới du học sinh Nhật trong thời gian dài, để rồi về sau giới chức Chính phủ Hoa Kỳ đâm ra nghi ngờ, theo dõi, kiểm tra, mới biết các xác chết hồi hương về Nhật Bản có chứa các tài liệu khoa học, kỹ thuật cao, tình báo kinh tế dấu trong các bọc nylon bên trong ổ bụng của kẻ tự sát đã được khâu lại. Vì đất nước quân chủ lập hiến của họ, họ đã hình thành những phi đội Thần Phong Kamikaze (gồm những phi công cảm tử chỉ cần được huấn luyện lái máy bay rồi xuất kích với lượng nhiên liệu đủ tiếp cận mục tiêu mà không cần học kỹ thuật hạ cánh) lao chiến đấu cơ Mitsubishi A6M Zero mang đầy bom vào ngay tử huyệt (giữa tháp điều khiển và ống khói các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ) đủ để đánh gảy xương sống chiến hạm nhấn chìm nó xuống biển sâu. Vì đất nước quân chủ lập hiến của họ, họ đi du học để lấy thân mình chuyển tài liệu về cho các nhà khoa học nghiên cứu, hầu có kết quả nhanh hơn là chờ đến khi họ tốt nghiệp sau những năm dài du học đầy tốn kém cho quê nhà. Đối với các kamikaze có thật và các du học sinh là giai thoại do không bên nào xướng nhận sự thật của các vụ mổ bụng tự sát, người ta có thể thấy toát lên từ cái cực đoan của tinh thần samuraininja chỉ biết có chủ nhân – sau này chủ nhân có nghĩa là đất nước Nhật Bản – là sự tự hào dân tộc, xem thường dân da trắng phương Tây, và chủ tâm lấy cái cực hay của Tây để thống trị Tây, chứ không bao giờ lấy cái tàm tạm của Tây để rồi hoặc bỏ quê hương hoặc trở về chê bai thóa mạ quê hương, đòi thay đổi thể chế và lật đổ chính quyền đang lèo lái quê hương qua cơn quốc nạn. 

III. Kết Luận: Chân Giá Trị Về Sức Mạnh Kinh Tế Thần Kỳ Của Việt Nam

Như vậy, nếu Nhật Bản có 7 điều kiện cực kỳ đủ để cất cánh phô trương sức mạnh kinh tế thần kỳ như:

a- có sẵn kho tàng cướp được từ các quốc gia bị chiếm đóng vùng Châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, trong đó có Đông Dương, trong đó có Việt Nam;

b- được kẻ thù không đội trời chung cung cấp tài lực để trở thành tiền đồn ngăn cản sự bành trướng của cộng sản Trung Quốc và Liên Xô, bảo vệ sự an nguy cho đất nước Hoa Kỳ về mặt Thái Bình Dương;

c- được kẻ thù không đội chung trời cung cấp cơ hội sản xuất và xuất khẩu làm giàu trên xương máu dân nước khác trong cuộc chiến Nam-Bắc Hàn;

d- chính phủ không cần chăm lo cho đời sống nhân dân và chỉ phải tập trung xây dựng tập đoàn kinh tế;

e- nhân dân cam chịu sống trong cảnh củi quế gạo châu, không dám mở miệng chống đối;

f- tinh thần SamuraiNinja chỉ biết cúc cung tận tụy thực hiện mệnh lệnh cấp trên; và

g- giới trẻ du học để nắm kiến thức khoa học kỹ thuật về phục vụ phát triển kinh tế đất nước chứ không bao giờ muốn lật đổ chế độ quân chủ ở quê nhà hay “phản biện” cung cách chính phủ đang điều hành kinh tế đất nước;

thì Việt Nam mới thực sự có được sức mạnh siêu thần kỳ vì trong điều kiện

a- không có bất kỳ kho tàng nào cướp được của lân bang để làm vốn đầu tay “tự có”;

b- bị kẻ thù cô lập chính trị, cấm vận kinh tế, bôi nhọ thanh danh Việt Nam từ đất nước duy nhất trên hành tinh cứu nguy dân tộc Campuchia thoát nạn diệt chủng kinh khủng điên rồ trở thành kẻ xâm lược quốc gia của Khờ-Me Đỏ;

c- không còn nhận được sự hỗ trợ kinh tế của Liên Xô và các nước Đông Âu Xã Hội Chủ Nghĩa, đã vậy còn bị siêu cường Trung Quốc gây hấn, tấn công quân sự;

d- chính phủ thực hiện lời dạy của thánh nhân trong trị quốc: minh quân thương dân như con đỏ, chăm lo đến từng miếng ăn cái mặc cho toàn dân trong khi hoàn cảnh kinh tế đất nước ngặt nghèo, bảo đảm thiếu hụt lúa gạo có ngay bo bo, lấy bao cấp làm quốc sách chứ quyết không để nhân dân phải chịu đựng như dân Nhật Bản mua củi đắt hơn quế nấu gạo đắt hơn châu, và trong nhiều chục năm trời không dám đưa giá điện và nước lên đúng giá thành sản xuất, chỉ để sao cho nhân dân được sống ít khó khăn hơn trong thời gian dài hơn một phần ba thế kỷ;

e- người Việt thích đôi co, tranh luận mọi việc, khiến ngay cả việc đơn giản có văn hóa cực cao như đội mũ bảo hiểm cũng nhao nhao “phản biện” thay vì răm rắp thực hiện quy định của nước nhà; và

f- không ít người trong giới trẻ du học kiểu bá đạo, chưa thành nhân đã tự xưng nhân tài, chưa đóng một xu thuế đã lo thu nhập bị hao hụt, không học kỹ thuật dính dầu mỡ sản xuất nhọc nhằn mà chọn quản trị kinh doanh và luật sang trọng để dùng mớ kiến thức sách vở nào cũng có để phỉ báng chính phủ không biết tăng gia sản xuất làm kinh tế, vi phạm nhân quyền và dân quyền, đòi áp dụng luật ngoại lai, quăng ném bã dân chủ-tự do-đa đảng-đa nguyên thiu ôi cũ rích mà không một công dân trí thức trẻ nào tại các nước tiên tiến xem trọng, và đòi thay đổi cả thể chế chính trị nước nhà, mong làm Tổng Thống ngồi trên đầu thiên hạ;

Việt Nam vẫn tồn tại được suốt 35 năm qua, đánh bại quân đội siêu cường Trung Quốc, cưu mang cứu mạng dân tộc Campuchia, tiêu diệt Khờ-Me Đỏ, chặn bắt toàn bộ các toán Kinh Kha của bọn Việt Kiều Mỹ-Thái-Úc đột nhập toan sát hại lương dân, kiên trì giáo dục người dân, xây dựng kinh tế ổn định phát triển, tạo uy thế chính trị cao vời, uy tín quốc tế gia tăng mà đất nước mang tên Việt Nam chưa bao giờ có được trước đó, mới thấy sức mạnh kinh tế của Việt Nam thực sự trên cả thần kỳ.

Tóm lại, mỗi khi ai đó trong cộng đồng người Việt chúng ta trầm trồ về sự thần kỳ hay kỳ tích kinh tế của một quốc gia nào khác, nên biết rằng người dân nước đó phải đồng cam cộng khổ hy sinh nhiều đến dường nào cho đất nước họ phồn vinh, rằng người dân nước Việt có đã và đang thắt lưng buộc bụng tự nguyện gánh chịu tất cả vì sự sinh tồn nòi giống và danh dự quốc gia, và có đã và đang hiểu biết chính phủ của mình đã và đang thực hiện có hiệu quả những kế sách kinh tế chưa từng được nêu lên tại các học viện hàn lâm trên thế giới, với cung cách, tư cách, và uy thế của những nhà giáo cấp thấp, chân quê, từng đánh thắng các tướng lĩnh thế gia vọng tộc ngôi sao sáng chói của các học viện quân sự Hoa Kỳ, xây dựng kinh tế Việt Nam phát triển mà chưa một tiến sĩ hàn lâm nước ngoài nào có thể làm điều tương tự tại Việt Nam Cộng Hòa.

Có như vậy mới đúng là người tôn trọng sự thật, yêu lẽ công bằng, và mới biết Đảng đã thương dân như con đỏ quá sức và quá mức như thế nào,

để nhận ra rằng chính Bụt chùa nhà mới thực sự thiêng liêng.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Ghi chú:

*PhantomGhost đều có nghĩa là “con ma” trong tiếng Việt được hãng Rolls-Royce dùng đặt tên cho hai model xe ô-tô đắt tiền của họ (dường như đã có hai chiếc Rolls-Royce Phantom ở Việt Nam). Đây là kiểu đặt tên nghèo nàn thường gặp ở các nhà sản xuất Âu Châu vốn rất kiêng kỵ với văn hóa trí hóa cao ở Việt Nam, và tôi nương theo đó mà dùng hai từ SpectreSpook cũng có nghĩa là “con ma” trong tiếng Việt để nhạo bọn Rolls-Royce, chứ trên thị trường thế giới chỉ mới có thêm phiên bản Rolls-Royce Phantom Coupé chứ chưa có xe Rolls-Royce SpectreRolls-Royce Spook.

Bài viết về Nhật Bản sau khi trở thành Nghị Sĩ Khóa XIII:

Để Việt Nam Trở Thành Cường Quốc: Hão Huyền Nhật Bản  28-02-2016

Tham khảo liên kết có nhắc đến trong bài:

Hướng Dẫn Của Hoàng Hữu Phước Về Đội Mão 15-5-2019

Bằng Giả – Đại Học Gà Rừng  28-9-2010

Both comments and trackbacks are currently closed.