Cộng Sản Việt Nam Phải Dân Tộc Và Thiên Khổng

Hoàng Hữu Phước, MIB, Nhà Tư-Tưởng và Lý Luận Cộng-Sản Dân-Tộc Thiên Khổng, Nhà Chính-Trị, Nhà Sử Nghiên Chính-Trị

28-6-2019

Bài này không ham hố hàm hồ hăm hở hì hục gợi ý bất kỳ cái gì liên quan đến “tài năng thấu thị” cá nhân của Hoàng Hữu Phước, người Việt Nam duy nhất hiểu đúng nhất ý nghĩa của khiêm tốn trong tiếng Việt qua bài viết “Khiêm Tốn”.

Bài này chỉ đơn giản cho thấy Hoàng Hữu Phước đã đơn giản chỉ làm một việc rất nhỏ và rất đơn giản : tổng luận đơn giản nhất những sự thật rất hiển nhiên mang tính lịch sử và chân lý rất đơn giản luôn tồn tại ở đất nước Việt Nam, nơi dân tộc Việt Nam, trong lịch sử Việt Nam, và từ đời sống Việt Nam, mà bất kỳ ai còn sống trên toàn thế giới cũng có khả năng thiên phú dễ dàng nhận ra tương tự để hào phóng phức tạp viết về.

Điểm khác biệt, do đó, chỉ nằm trong chỉ một câu đơn giản nhất ngắn gọn nhất dễ hiểu nhất sau: trong cái cụm từ “toàn thế giới”đơn giản  ấy, Hoàng Hữu Phước đơn giản chỉ nhờ có chút may mắn cỏn con như hạt cát, nhỏ thua ngọn cỏ, mà trở thành người đầu tiên và duy nhất đơn giản nhận ra và đơn giản viết về vấn đề đơn giản sau với lợi thế đơn giản của võn vẹn năm ngàn năm trí thức tinh hoa trí tuệ của nhân gian mãi miết miệt mài rong chơi cuối trời quên lãng của định kiến trệ trì tạp phức.

I- Hai Giá Trị Thật Của Tất Cả Các Chủ Nghĩa Chính Trị Tại Việt Nam

A) Hành Trạng Tư Duy Về Kinh Tế Và Tiến Hóa Xã Hội

1- Việt Nam trong thời cận đại đã tập tễnh làm quen với các thứ “chủ nghĩa” trong chính trị một cách hoàn toàn vô thức trên hai cơ sở duy nhất của chủ nghĩa quân chủ chuyên chế (gọi mềm đi để ngụy trang là chủ nghĩa tôn quân) và chủ nghĩa dân tộc cực đoan (gọi mềm đi để ngụy trang là chủ nghĩa ái quốc) đã có tự ngàn xưa, khiến tất cả các lĩnh vực khác trong đời sống quốc gia và quốc dân đều trở thành thứ yếu trong đầu óc những đấng “làm chính trị” từ vua chúa đến bầy tôi của họ, rất mờ nhạt, hoặc không hiện hữu thành các ngành học để có các chức quan, và tất nhiên không bao giờ tồn tại trong kiến thức các đấng sĩ phu từng – hoặc mơ màng được – mang danh phò vua giúp nước, khiến Việt Nam trước thời đại Hồ Chí Minh chẳng thể thịnh cường.

2– Cụ thể của điểm 1 ở trên là: “Lục Bộ” của các triều đại quân chủ chuyên chế Việt Nam chỉ bao gồm Bộ Lại (tương tự “Bộ Nội Vụ”, có chức năng đề xuất phong quan tước, thăng quan tước, thuyên chuyển, tiến cử, ban thưởng, bổ nhiệm, bãi nhiệm, v.v.); Bộ Lễ (tương tự “Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Khảo Thí”, có chức năng lo việc lễ nghi, nghi thức, yến tiệc, học đường, thi cử, thiên văn, y tế, thi cử, v.v.); Bộ Hộ (tương tự “Bộ Tài Chính Và Tài Nguyên” với chữ “tài nguyên” bao gồm con người và sản vật, có chức năng lo về kho tàng, nhân khẩu, thuế vụ, điền thổ, thóc lúa, muối, sắt, v.v.); Bộ Binh (tương tự “Bộ Quốc Phòng”, có chức năng lo việc quân sự, quân binh, quân nhu, quân trang, quân dụng, quân lương, v.v.); Bộ Hình (tương tự “Tòa Án Tối Cao”, có chức năng lo việc luật pháp, xét xử, tuyên án, v.v.); và Bộ Công (tương tự “Bộ Xây Dựng và Giao Thông Vận Tải”, có chức năng lo việc xây dinh thự đền đài, xây cầu đường, quản lý thủy lộ, v.v.). Hoàn toàn không có “Bộ” nào lo việc “kinh thương”, “xuất nhập khẩu”, “tiếp thị”, “kỹ thuật”, “đầu tư”, “sản xuất/lưu thông/phân phối”, v.v., cho thấy cái tư duy khinh thường khinh khi khinh miệt thương mại, thương nhân, thương trường, vốn là tư tưởng chủ đạo thâm căn cố đế trong giới tinh hoa trí tuệ phong kiến và tiền-xã-hội-chủ-nghĩa Việt Nam.

3- Từ điểm 2 ở trên, dễ dàng nhận ra ngay lý do vì sao Phong Trào Đông Du đã đại bại, đã thất bại hoàn toàn, triệt để, trong đớn nhục ê chề như sẽ được chứng minh rõ trong các phần tiếp theo bên dưới.

4- Từ điểm 2 và 3 ở trên, dễ dàng nhận ra vì sao giới tinh hoa trí tuệ Việt Nam – nhất là những ai trong các đấng trí hóa cao vời sống vào “thời đại” Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu – khi “tiếp nhận tư tưởng Phương Tây” đã chủ động loại bỏ, chà đạp, chống phá cái mà trí tuệ nhỏ như cọng cỏ, nông cạn như chiếc hủ nhỏ nuôi cá hổ piranha mới được đẻ nhe răng dọa hù con trẻ, không thể hiểu được, tức cái xa lạ gọi là “kinh tế chính trị” và “biện chứng” trong hệ tư tưởng Mác-xít tân thời hiện đại – dù mới hơn và mới nhất trong hệ tư tưởng Phương Tây – đang có khả năng đánh bại hai đại chủ nhơn Pháp Quốc và Mỹ Quốc mà họ quỳ cả gối và đầu lạy lục xin được phép tôn thờ.

B) Hành Trạng Tư Duy Về Tính Thượng Đẳng Và Kỳ Thị

4 điểm nêu trên của Phần A cho thấy 4 sự bật rõ của kiểu tư duy rất cực đoan (“extremism”) kỳ thị  (“racism”) cho mình là thượng đẳng (“supremacism”) của giới tinh hoa trí tuệ cổ hủ Việt Nam như sau:

1- Chống chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít vì chẳng hiểu gì về kinh tế nhưng muốn làm đại chủ, chẳng hiểu gì về chính trị nhưng muốn làm tổng thống, chẳng hiểu gì về biện chứng nhưng hét hò chống Cộng, và xem thường mọi giai cấp nào bị xếp dưới đẳng cấp “sĩ phu” nhưng cứ luôn hào phóng gộp chung cái cụm bị xếp dưới này vào cụm từ mào dầu diễn văn mỗi khi diễn xuất “hỡi quốc dân đồng bào”. Từ đó, các luận điệu chẳng hạn như “Cộng sản khát máu” hoặc “Cộng sản nghĩa là tịch thu hết tài sản nhân dân”, hoặc tương đương, chỉ là những cụm từ đậy che sự ngu dốt về kinh tế chính trị, cũng như đậy che cái ngụ ý cao ngạo ngu xuẩn rằng “ta đây chỉ khát rượu đế vì có chơn mạng đế vương và sẽ lên làm tổng thống”.

2- Tuy thấm đượm thâm sâu chủ nghĩa tôn quânchủ nghĩa ái quốc của 5.000 năm lịch sử, tuyệt đại đa số giới “sĩ phu” Việt Nam lại ở một thái cực hoàn toàn khác lạ và quái lạ. Sau nhiều ngàn năm tích cực tư vấn tất cả các minh quân và hôn quân từ cách vơ vét vàng ngọc, châu báu, ngà voi, sừng tê, trầm hương, kỳ nam, lùng bắt trinh mỹ nữ, dí bắt nghệ nhân, gom bắt thầy bói, lùa bắt thợ thuyền, v.v., triều cống “Thiên Triều Tàu”; đến cách dâng đất đai cương thổ chủ quyền quốc gia cho “Địa Triều Pháp”, đã dẫn đến sự tự động nô dịch về tư tưởng đến độ các “nhà chí sĩ ái quốc” nếu muốn “cứu quốc” thì nghĩ ngay đến việc hoặc khuyên vua “tử tế biết điều” với Pháp để Pháp không nỡ “quánh” mình, hoặc lạy mời Nhật Bản vào đuổi Pháp và cử hàng trăm đấng văn nhân sang nước Nhật kỹ thuật tân kỳ chỉ để du học tiếng Tàu để rèn tay nghề xướng họa thơ văn chữ Hán với ước muốn khi tốt nghiệp sẽ trở về Việt Nam dùng chiếc cọ bút lông viết nên những vần thơ chữ Hán yêu nước láng lai khích lệ toàn dân hãy hy sinh xương máu vùng lên đuổi Pháp để ta đây lên nắm quyền trị quốc, chứ nhất quyết không thèm cậy đến lực lượng “lao động chân tay nghèo khổ thấp hèn nội địa” của gã phụ bếp họ Hồ có tên khởi thủy là Nguyễn Ái Quốc. Việc trị quốc, do đó, có nghĩa trần trụi là: nếu không còn nằm trong tay những quân vương mất nước thì phải thuộc về các vị quan hoặc các vị sẽ làm quan xuất thân tinh thông Hán Học, bất kể các vị quan hoặc các vị sẽ làm quan ấy bất tài vô dụng đã không thể giúp quân vương của họ thoát khỏi họa mất nước.

3- Lịch sử Việt Nam cận đại còn cho thấy “đại quan thượng thư” bất tài vô hạnh Ngô Đình Diệm do không hề đánh đuổi ngay cả một tên lính Pháp gốc Ma-Rốc để giành “độc lập tự do” nên đã rình rập thời cơ chờ gã phụ bếp vĩ nhân Hồ Chí Minh tiêu diệt xong quân đội thực dân Pháp giành được “độc lập tự do” thì nhanh nhẹn lăn lê trườn bò ra ngoạm lấy quyền bính “đế vương” bằng cách giương cao ngọn cờ Vatican và dựa dẫm tài lực Hoa Kỳ. Ngay cả tên võ biền Nguyễn Văn Thiệu do không hề đánh đuổi ngay cả một tên lính Pháp gốc Ma-Rốc giành “độc lập tự do” cũng mô phỏng theo Ngô Đình Diệm để chui vào chính cái tôn giáo ấy và dựa vào sức mạnh của chính cái nước ấy để ngoạm lấy quyền bính “chân mạng đế vương” từ tay “chân mạng thiên tử” Ngô Đình Diệm ra sao. Chính trị, đối với hai tên chuyên gia ngoàm ngoạm này, đều tất nhiên hoàn toàn không bao giờ dính dáng gì đến độc lập dân chủ tự do của quốc gia dân tộc Việt Nam. Chính trị, đối với hai tên này và những chính khách xôi thịt (tiếng lóng Sài Gòn thời Việt Nam Cộng Hòa) tương cận, chỉ dính dáng đến “chân mạng đế vương của cá nhân mỗi khứa”.

4- Cả hai tên Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu hoàn toàn không có hành trạng tư duy chánh trị, không hiểu biết gì về “đảng chính trị” tức “chính đảng” nên tên thì cố rặn ra “Đảng Cần Lao Nhân Vị” cho-có-với-người-ta-vì-không-lẽ-thua-dân-đen-Hồ-Chí-Minh mà bản thân cái tên của Đảng ấy đã là một hý hước ngôn từ của sự nhảy múa máng cám heo của lao động cho giống Ông Hồ trộn với nhân quyền cho giống Ông Mỹ; tên thì bậm môi hý hoáy viết mãi không xong mới láu cá chộp ngay chữ “Dân Chủ” trong quốc hiệu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa để đẻ ra cái đảng có cái tên “Đảng Dân Chủ”, và chộp ngay lá cờ đỏ sao vàng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa để đẻ ra cái cờ vàng sao đỏ gọi là “đảng kỳ” đần độn cho cái đảng độn đần chỉ-có-đảng-trưởng-chớ-không-có-tới-một-đảng-viên-và-không-có-trụ-sở-đảng-cùng-cương-lĩnh-chính-trị ấy. Cả hai thứ hỗ lốn về chính trị này của hai tên đần độn đều dẫn đến một nền chính trị duy nhất kỳ quặc trên thế giới mà nhà hùng biện Hoàng Hữu Phước gọi là nền chính trị nhà nước “Zero Đảng” để hậu thế có thể dễ dàng nhận ra sự đường hoàng chính trị rất bài bản đường đường chính chính cực kỳ chuyên nghiệp của nền chính trị nhà nước “Độc Đảng” của Việt Nam Cộng Sản và nền chính trị nhà nước “Lưỡng Đảng” của Huê Kỳ Tư Bổn. 

II- Ba Lý Do Thất Bại Hoàn Toàn Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trên Thế Giới

A) Lý Do 1 Tại Châu Âu: Giai Cấp

Lý do thứ nhất khiến Chủ Nghĩa Cộng Sản thất bại hoàn toàn và triệt để ở Châu Âu là: chủ nghĩa cộng sản vướng phải các bất tương thích giữa ba yếu tố học thuyết, thực tế, và hoàn cảnh, tức yếu tố “thiên thời địa lợi nhân hòa” chỉ đã đạt trên cơ sở cục bộ thời vụ, theo các diễn giải lý luận dưới đây. Tất nhiên, “thất bại” mang nội hàm rằng Chủ Nghĩa Cộng Sản không thể tỏa lan tại Châu Âu, và thực tế hiện không có bất kỳ quốc gia nào ở Châu Âu là nước cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa cả.

1- Học Thuyết:  Yếu tố “đấu tranh giai cấp” đã chỉ là một thấu thị mang tính thời vụ của Karl Marx, không có giá trị miên viễn. Thấu thị này chỉ đúng với sự thật một giai đoạn lịch sử rằng thủa ban đầu chỉ cần giương cao ngọn cờ của giai cấp công nhân – gọi là giai cấp vô sản – thì các thế lực chính trị ở nhiều quốc gia đã có thể hình thành sức mạnh quyền lực quyến rũ vô song phục vụ hữu hiệu các ý đồ chính trị của những cá nhân mà không có sự tham chính thống soái của bất kỳ ai xuất thân từ giai cấp vô sản bần cùng quý hóa ấy. Khi những cá nhân nắm được quyền lực trị quốc, đại cuộc đấu tranh giai cấp đương nhiên tan biến như thực tế lịch sử đã luôn chứng minh mà điển hình là Liên Xô. Đã không trực tiếp làm chủ soái chính trường, giai cấp công nhân cũng không bao giờ nắm quyền làm chủ soái tư liệu sản xuất vốn chỉ là một điều thuần lý thuyết luôn trái với thực tế hoạt động đầu tư-sản xuất-kinh doanh, vì giới công nhân đương nhiên phải luôn lệ thuộc vào “giới chủ” bất kể giới chủchủ nhân ông tư bản hay giới chủchủ nhân bà nhà nước. Không còn đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa cộng sản không còn nền móng cho lý luận cộng sản phát triển, lan tỏa, sinh tồn ở Châu Âu.

2- Thực Tế: Thế Giới Đại Chiến II đã làm toàn Châu Âu kiệt quệ cả về nhân lực và tài lực, hạ tầng và thượng tầng. Hầu như từ chính phủ các nước cho đến người dân của họ đều trở thành “vô sản” theo nghĩa đen của sự điêu tàn thống khổ điêu linh điêu đứng không chút điêu ngoa, khiến tự động xóa nhòa ranh giới mong manh của “giai cấp vô sản” so với các “giai cấp” khác, biến “đấu tranh giai cấp” trở thành tối nghĩa, mơ hồ, huyễn hoặc, dễ bị tổn thương, dễ bị đã phá bởi các nhà tư tưởng phi-cộng-sản. Không còn đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa cộng sản không còn nền tảng cho lý luận để phát triển, sinh tồn ở Châu Âu.

3- Hoàn Cảnh: Thiên Thời, Địa Lợi, Nhân Hòa: Cách Mạng Tháng Mười Nga thành công nhờ có các lãnh tụ cách mạng có học thức, thức thời nắm bắt ngay triết thuyết cộng sản đầy mê hoặc mà tình cờ do thiên định đã xuất hiện ngay tại Châu Âu để phục vụ các mưu đồ chính trị sục sôi của thời đại Âu Châu, có Nước Nga Âu Châu tàn lụi của các Sa Hoàng, và có vấn nạn ngoại xâm trong nội bộ Châu Âu. Học thuyết mang tính thấu thị chi tiết cực kỳ chính xác của Karl Marx về đấu tranh giai cấp đã cuốn hút giai cấp công nhân, nhưng đồng thời cũng khai sáng giúp các chính phủ tư bản Châu Âu và Mỹ có được sự cảnh báo tối cần thiết để triệt tiêu sự cuốn hút ấy bằng 3 cách gồm (a) xóa dấu tích bóc lột bằng cách gia tăng cao nhất các phúc lợi tập thể có thể được cho giới công nhân để giai cấp này nhận ra rằng không nhất thiết phải theo cộng sản đổ máu đấu tranh mới có được các phúc lợi dồi dào ấy; (b) vài chính phủ Âu Châu dựng xây xã hội đầy ắp phúc lợi tập thể theo mô hình lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong khi Liên Xô do dồn sức cưu mang các nước Đông Âu trong cái gọi là Phe Xã Hội Chủ Nghĩa đã không thể đem lại cho dân chúng của họ những phúc lợi tương đồng khiến không còn hấp dẫn giai cấp công nhân nói chung ở Tây Âu, Nam Âu, và Bắc Âu; và (c) bao vây Liên Xô, bao vây Nga, cô lập các nước “cộng sản” để chôn vùi chủ nghĩa cộng sản. Không còn sự tồn tại của các quốc gia cộng sản ở Châu Âu, chủ nghĩa cộng sản chấm dứt sự phát triển, tỏa lan, sinh tồn của nó ở Châu Âu.

B) Lý Do 2 Tại Châu Mỹ: Ăn Theo

Lý do thứ hai liên quan đến nội dung Chủ Nghĩa Cộng Sản thất bại hoàn toàn ở Châu Mỹ là: sự ăn theo Chủ Nghĩa Cộng Sản dưới tên gọi kỹ xảo ngôn từ của Chủ Nghĩa Xã Hội. Tất nhiên, “thất bại” mang nội hàm rằng Chủ Nghĩa Cộng Sản không thể tỏa lan tại Châu Mỹ, và thực chất hiện không bất kỳ quốc gia Mỹ Châu nào là nước cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa cả.

Chủ nghĩa cộng sản đã không thể tồn tại ở Cuba, đơn giản vì Cuba không phải là một quốc gia phát triển công nghiệp như các nước Tây Âu để hình thành tư bản để nhờ đó có được một giai cấp công nhân đủ về số lượng và về tầm vóc cho một cuộc cách mạng vô sản đúng nghĩa và thành công như cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga đã giúp Nga hùng mạnh chiến thắng trong cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc của họ rồi dựng xây Khối Xã Hội Chủ Nghĩa một thời hùng cứ. Sự ăn theo Liên Xô của Cuba mà xuất phát điểm là sự thèm khát thôn tính Cuba của Hoa Kỳ đã dồn Cuba vào tuyệt lộ, do đó đã không bao giờ phát huy tác dụng. Không có đấu tranh giai cấp, mà chỉ có sự chống Mỹ để tồn tại nhờ quan hệ với nước Nga mà nay đã không còn là cộng sản, chủ nghĩa cộng sản chỉ còn là tên gọi ở Cuba, không là nền tảng cho lý luận để phát triển, sinh tồn ở Châu Mỹ.

Chủ nghĩa xã hội cũng không thể tồn tại ở Venezuela hay bất kỳ quốc gia Nam Mỹ nào vì khu vực “đa đảng” này khét tiếng với những chính phủ tham nhũng, mà cách tốt nhất để triệt tiêu các đối thủ cạnh tranh trong quốc gia “đa đảng” của mình là phải khôn ngoan trở thành đối tác của Nga bằng cách giương cao ngọn cờ xã hội chủ nghĩa ngay cả khi Nga không còn là quốc gia cộng sản. Không có đấu tranh giai cấp, mà chỉ có sự chống Mỹ để tự bảo vệ lợi ích nhóm, cố tồn tại nhờ dựa dẫm vào quan hệ với nước Nga không cộng sản, chủ nghĩa cộng sản chỉ còn là tên gọi, không là nền tảng cho lý luận để phát triển, sinh tồn ở Venezuela hay toàn Châu Mỹ.

C) Lý Do 3 Tại Châu Á: Thao Túng

Phần này luận giải lý do thứ ba của sự thất bại hoàn toàn của Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Châu Á. Tất nhiên, “thất bại” mang nội hàm rằng Chủ Nghĩa Cộng Sản không thể tỏa lan tại Châu Á, và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là quốc gia duy nhất ở Châu Á vẫn còn sự tồn tại của chủ nghĩa cộng sản về mặt chính trị quốc gia chứ không trên bình diện giáo điều ý thức hệ.

Chủ nghĩa Cộng sản xuất hiện ở Trung Quốc dựa trên 5 đòn bẩy lịch sử sau:

1- Nhân Vật: Mao-Xế-Tùng hoặc Mao-Tiêu-Tùng (tiếng Anh phiên âm thành Mao Tse-tung được dùng khắp hang cùng ngõ hẻm toàn thế giới trừ Việt Nam, vì tiếng Việt tự chế thành Mao Trạch Đông nhằm hỗ trợ tôn sùng tôn kính lãnh tụ Tàu né tránh chữ “Xế” vốn có nghĩa bóng xế chiều tà không hợp “phong thủy”). Thành phần gia đình: phú nông. Quá trình công tác: lao động đồng áng toàn thời gian từ 13 đến 17 tuổi. Học vấn: tốt nghiệp trung học chỉ sau khi theo Sun Yat-sen. Nghề nghiệp: có giấy phép hành nghề dạy học nhưng không dạy học ngày nào mà xin làm phụ tá quản thủ thư viện Đại Học Bắc Kinh. Tính khí: bộp chộp, nhiều thèm muốn.

2- Thời Cơ Chính Trị: Mao-Xế-Tùng gia nhập quân đội của Xuân-Dật-Sen (tiếng Anh phiên âm thành Sun Yat-sen được dùng khắp hang cùng ngõ hẻm toàn thế giới trừ Việt Nam, vì tiếng Việt tự chế thành Tôn Dật Tiên nhằm hỗ trợ tôn sùng tôn kính lãnh tụ Tàu né tránh chữ “sen” vốn có nghĩa tỳ tất và ô-shin) lật đổ chế độ phong kiến vương triều thành lập Trung Hoa Cộng Hòa (thống nhất công thức tạo từ với cụm chữ Việt Nam Cộng Hòa).

3- Thời Cơ Tư Tưởng: nhờ làm việc ở thư viện có nhiều thời gian và có dịp tiếp cận  sách báo, Mao-Xế-Tùng có thông tin về sự thành công của cuộc cách mạng Nga hình thành nước Liên Xô cộng sản chủ nghĩa vĩ đại, nên nhanh chóng mô phỏng để cùng vài người thành lập Đảng Cộng Sản Trung Hoa, lấy tư tưởng Lê-nin sẵn có để chế biến nấu xào thành chủ nghĩa Mao lấy nông dân làm cốt lõi cho đại cuộc hình thành chủ nghĩa cộng sản riêng cho toàn Châu Á.

4- Thời Cơ Lịch Sử: Khi Xuân-Dật-Sen quy lụy kết liên với Mao-Xế-Tùng, y đã tạo điều kiện cho Mao-Xế-Tùng trở thành nhân vật quyền bính. Lúc Xuân-Dật-Sen qua đời, Chang-Kai-Sếch (tiếng Anh phiên âm thành Chiang Kai-shek được dùng khắp hang cùng ngõ hẻm toàn thế giới trừ Việt Nam, vì tiếng Việt tự chế thành Tưởng Giới Thạch nhằm hỗ trợ tôn sùng tôn kính lãnh tụ Tàu thân Việt Nam Cộng Hòa này đánh lại lãnh tụ Tàu thân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kia, đồng thời né chữ sếch nghe giông giống sếch-xi sexy thiếu nghiêm túc) tàn sát cộng sản. Mao-Xế-Tùng bèn đưa tàn quân toàn nông dân bôn tẩu trong cái mà sử sách thế giới gọi là Cuộc Trường Hành (tiếng Anh là Long March, giới tinh hoa Việt sính hoa lá cành và sính bái lạy Tàu nên gọi là Vạn Lý Trường Chinh trong khi cuộc tháo chạy của 100.000 người đã phải bỏ lại trên đường hết 70.000 xác thì “chinh” cái con khỉ khô, lẽ ra phải là Vạn Lý Trường Tẩu mới đúng) nhờ vậy nhiều thanh niên các vùng miền nghe danh – dù chưa có internetfacebook – cũng lặn lội tìm đến, giúp Mao-Xế-Tùng hình thành quân đội của những tân chiến binh thuộc nhiều ngành nghề. Đến khi Nhật xâm lược Trung Hoa, do chống không nổi, Chang-Kai-Sếch cầu viện Mao-Xế-Tùng, biến Mao-Xế-Tùng thành người hùng chống ngoại xâm thành công đuổi Nhật ra khỏi bờ cõi và nhân tiện đuổi luôn Chang-Kai-Sếch ra khỏi lục địa nương náu ngoài đảo nhỏ Tài-Quan (tiếng Anh phiên âm sử dụng toàn cầu là Taiwan, còn tiếng Việt do những trí thức thất nghiệp đặt cho cái tên lạ hoắc là Đài Loan nhằm tránh chữ Tài Quan giông giống …Quan Tài).

5- Thời Cơ Dân Chủ Tự Do: Cuối cùng, Mao-Xế-Tùng khi áp dụng phương thức “tự do biểu đạt” và “tự do ngôn luận” của dân chủ Tây Phương để mong nhận được các vấn kế định quốc an bang của giới trí thức tinh hoa trí tuệ trong nhân dân nhằm nhanh chóng dựng xây đất nước đẹp giàu, rốt cuộc chỉ tạo điều kiện cho bọn “bảo hoàng” (tôn thờ chế độ phong kiến hoàng triều), “ngụy quyền” (tôn thờ “tổng thống” Chang-Kai-Sếch đã bỏ chạy mất dép sang Tài-Quan), “mông muội” (muốn ta đây làm “tổng thống” như mấy thằng cỡ nhân tài Lê Công Định của Việt Nam hoặc mấy hảo hớn chạy mất dép ở hải ngoại đòi “phục quốc”), “ngu muội” (đi “Tây” học rồi bị tẩu hỏa nhập ma trở về muốn Trung Quốc phải “tự do” như Mỹ), nên làm các mong muốn áp dụng dân chủ Âu Tây của Mao-Xế-Tùng bị tàn xế tiêu tùng, khiến Mao-Xế-Tùng nổi giận, trở thành nhà độc tài tàn bạo tàn khốc tàn nhẫn, thành mối họa sẽ làm tàn tạ các lân bang.

Như vậy, ngay từ đầu, chủ nghĩa cộng sản đã trở thành bức bình phong đậy che sự thật về thao túng. Kẻ cơ hội nhưng ít học như Mao-Xế-Tùng không tài nào hiểu được cái thâm thúy của chủ nghĩa cộng sản. Y chỉ nắm bắt được rằng cái tư tưởng ấy dựa trên đấu tranh giai cấp mà giới công nhân bị tư bản bóc lột sẽ trở thành sức mạnh hình thành đế chế quyền lực mới. Trong điều kiện Tàu không có tư bản, không có tư bản bóc lột, không có giai cấp công nhân; nhưng Tàu lại có gần tỷ nông dân mà y cũng là nông dân, Mao-Xế-Tùng cho rằng dại gì không bê cái tư tưởng Lê-nin ấy, lấy chữ “nông dân” dán đè lên chữ “công nhân”, rồi gọi đó là Chủ Nghĩa Mác-Mao hay lấy tiết kiệm làm quốc sách thì gọi là Chủ Nghĩa Mao tức Maoism cho gọn nhẹ. (Kampuchea tuân theo cái Chủ Nghĩa Mác-Mao ấy nên toàn sử dụng cuốc xẻng của nông dân để hành quyết thị dân, gây ra cuộc đại diệt chủng đầy bịnh hoạn làm nhân hoại kinh hoàng run rẩy đứng như trời trồng nhìn Việt Nam vào cứu nạn, để rồi có thằng khi cử động được thì hét ngay là Việt Nam xâm lược nhất thiết phải bị cấm vận để bớt thói lưu manh, hoặc chờ đến năm 2019 mới dám ỏn ẻn lớn tiếng xun xoe nói Việt Nam đã vô cớ xâm lăng chiếm quyền trị quốc hợp pháp danh chính ngôn thuận của đám Khờ Me Đỏ Mao-ít thế giới tôn kính để khơi khơi tặng lại cho Hun-Sen.)

Và như vậy, từ khởi thủy cho đến ngày bài viết này được post, Trung Quốc chưa hề là một nước cộng sản. Thế giới chính trị hàn lâm tư bản liệt Trung Quốc vào danh sách các nước cộng sản chủ nghĩa là hoàn toàn sai. Mục đích của thế giới chính trị hàn lâm tư bản gọi Trung Quốc là nước cộng sản chủ nghĩa chỉ nhằm vào 3 lý do gồm

(a) che dấu sự xấu hổ nếu phải công nhận Trung Quốc là nước giàu có trong khi nước ấy không cần phát triển trên nền tư bản, đã vậy các nước tư bản phải chen chúc xin vào để “mần ăn”;

(b) ngụ ý cái nước cộng sản chủ nghĩa ấy nếu có “phất” thì cũng là nhất thời và chắc chắn rồi sẽ bị tiến trình dân chủ tại chỗ phá sập; và

(c) công khai cô lập về ý thức hệ rằng toàn thế giới hỡi hãy ghi nhớ rằng đó là một nước cộng sản chủ nghĩa, mà đã là chủ nghĩa cộng sản thì tất nhiên độc tài độc đảng; trong khi đó, chỉ cần xưng thần với tư bản phương Tây thi từ Park Chung-hee của Đại Hàn, Ferdinand Marcos của Philippines và Suharto của Indonesia cho đến Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu của Nam Việt có độc tài độc đảng hay có zero đảng thì cũng đều là những nhà ái quốc vĩ đại cả

Tương tự, bất kỳ quốc gia nào được Phương Tây ghi vào nhóm các quốc gia cộng sản chủ nghĩa cũng đều không đúng về mặt kinh tế, thực tế, và lịch sử. Còn chính trị ư? Chỉ có bọn trẻ nít mồm còn bập vào đầu vú mẹ mới không biết rằng trong chính trị thì mọi “chủ nghĩa” đều chỉ là tên gọi mà thôi. Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ có các đảng viên toàn giới thương nhân tài phiệt và một hai vị chức sắc trong cái “đảng” ấy có quen biết lâu năm với tác giả bài viết này và cứ xin tác giả bài viết này hãy chịu (a) đứng ra tác động thu xếp để đoàn của họ sang thăm Việt Nam được Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng cho phép diện kiến, và (b) tham gia đội ngũ của đoàn để làm chủ soái công tác thông phiên dịch cho các lãnh đạo đoàn. (Ghi chú: tác giả bài viết này có báo chi tiết qua email để đùn đẩy qua Đại Sứ Việt Nam tại Mỹ, nhưng dường như các đại sứ Việt Nam chỉ làm việc nếu có chỉ thị chỉ bảo chỉ dẫn chỉ đường từ Đảng chứ không tự làm gì sất ngay cả không tự báo cáo nếu sự việc không liên quan đến các chỉ thị chỉ bảo chỉ dẫn chỉ đường nên tác giả bài viết này cho rằng chắc ông ta phái sớm quyết định đứng ra giúp các đảng viên cộng sản Mỹ này thôi. Do không chuộng hư danh vốn dễ làm danh hư, chắc chắn tác giả bài viết này tại buổi gặp – nếu được phép diễn ra – sẽ nêu yêu cầu tiên quyết rằng không cho phép bất kỳ bố nhà báo hay mẹ nhà báo nào của các tờ báo nào đã từng ngu xuẩn dám tấn công ông ta trong đại cố “Luật Biểu Tình” và “Tứ Đại Ngu” được vào tác nghiệp kiếm cơm kiếm cháo.)

Tóm lại, chủ nghĩa cộng sản đã hoàn toàn thất bại tại Trung Quốc do cái mà Trung Quốc đã/đang/sẽ theo đuổi không phải là chủ nghĩa cộng sản mà là chủ nghĩa bá quyền nước lớn do Quýnh-Xì-Hăng (tiếng Anh phiên âm thành Qin Shi Huang để sử dụng toàn cầu, còn các nhà trí thức thất nghiệp ở Việt Nam gọi là Tần Thủy Hoàng để giúp Tàu né ý nghĩa rất hại “phong thủy” của quýnh quáng xì hơi có mùi hăng chăng) khai sáng. Và chủ nghĩa bá quyền nước lớn kiểu Tàu sẽ có tiếng Anh là Qinnism hoặc Qinnism-Maoism tức Chủ nghĩa Tần-Mao. (Ghi chú: Lăng Tần không có nghĩa là cái lăng tẩm của Quýnh-Xì-Hăng, mà là phiên âm tiếng Phạn trong Kinh Lăng Nghiêm Nhà Phật tên gọi chú chim Ca-lăng-tần-già ngậm xâu chuỗi bay hầu Phật Bà Quan Âm, do Hoàng Hữu Phước yêu phụ nữ chỉ thờ Phật Bà không thờ Phật Ông, nên lấy tên chim làm bút hiệu. Tất nhiên, do đó, Lăng Tần của Ca-lăng-tần-già cũng không phải đại ca của phe nhóm lăng xăng lăng nhăng lăng tăn nào, mà cũng luôn trẻ đẹp chứ hơn 60 năm qua có già bao giờ đâu?)

III- Ba Lý Do Giúp Chủ Nghĩa Cộng Sản Chỉ Trụ Vững Ở Việt Nam

Như vậy, trên toàn thế giới này thì chỉ có Việt Nam là quốc gia duy nhất còn sự tồn tại của chủ nghĩa cộng sản được hiến định và luật hóa.

Dưới đây là sự phân tích 3 lý do chủ lực cho sự tồn tại kỳ vĩ độc nhất vô nhị này.

A) Trình Độ Tư Duy Chính Trị Của Giới Tinh Hoa Phi Cộng Sản:

Những định kiến “vọng ngoại” của giới tinh hoa cổ đã tồn tại song hành với sự tồn tại và phát triển của Việt Nam từ lúc định hình cương thổ ban đầu cho đến sau khi minh định xong biên giới trên đất và trên biển vùng cực Nam. Những định kiến của giới tinh hoa cổ ấy đã hòa quyện hòa nhập hòa tan vào hệ thống tư duy của người bản Việt, nên – giống như hầu hết các dân tộc trên toàn thế giới – không bao giờ hết cổ hủ để có thể chủ quan rằng mọi thứ sẽ tự động thay đổi theo đà tiến hóa chung.

Như đã nêu rõ ở mục I.A.2 ở trên, định kiến “vọng ngoại” là điểm mấu chốt trong tư duy của toàn giới tinh hoa trí tuệ Việt Nam, mà các thí dụ sau là minh chứng thuyết phục hùng hồn nhất. Lời khẳng định cần thiết ở đây là nếu như bài Hoàng Hữu Phước Đối Đầu Với Chu Văn An chỉ nhằm nêu bật vấn nạn trầm kha đối với mức độ tin cậy của sử liệu Việt Nam, mức độ tuân thủ luật pháp của các danh nhân Việt Nam, và mức độ an toàn của công tác tàng thư của các vương triều Việt Nam; thì các nhận xét dưới đây về Phan Bội Châu tất nhiên chỉ nhằm nêu bật vấn nạn trầm kha đối với mức độ tin cậy của sử liệu Việt Nam khi thông tin dược chọn lọc ghi vào sử sách chỉ để phục vụ mục đích chính trị của thời sau thay vì lẽ ra đã chỉ là ghi nhận thông tin thật đầy đủ, thật có thiệt, không dấy lên các tranh cãi về tính chính xác và các ngờ vực đối với tính trung trực trung ngôn trung thực của những nhà chép Sử.

1- Phan Bội Châu phát động Phong Trào Đông Du gởi 200 học sinh sang Nhật Bản du học. Theo sử liệu gia đình, thạc sĩ Hoàng Hữu Phước đã viết một chi tiết trong bài Để Việt Nam Trở Thành Cường Quốc: Hão Huyền Nhật Bản rằng: Nhiều “nhân sĩ” hay “chí sĩ” Việt Nam hớn hở định “đi tắt đón đầu bằng cách hăm hở “Đông Du” để thâu tóm kiến thức Mỹ mà người Nhật Bản đã phải cất công hy sinh lặn lội sang Mỹ để học tập mà không “nhân sĩ” hay “chí sĩ” nào của Việt Nam phải mổ bụng tự sát hara-kiri như người Nhật Bản. Tất nhiên, người Nhật Bản đủ khôn để không truyền lộ cho kẻ khôn vặt khôn lõi chỉ chuyên đi tắt ấy các bí kíp kỹ thuật công nghệ tối tân, nên tất cả các “nhân sĩ” và “chí sĩ” Việt Nam của các phong trào Đông Du không bất kỳ ai sau đó trở về Việt Nam giúp Việt Nam trở thành cường quốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa cả. Thạc sĩ Hoàng Hữu Phước khi lập gia đình đã được một ông chú bên nhà vợ tặng một bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú. Ông là Lê Phục Thiện (tên thật ngoài Thanh Hóa là Lê Quốc Túy), một “nhân sĩ chí sĩ”đã “Đông Du” sang Nhật Bản học…làm thơ tiếng Hán và làm “chính trị kiểu Tàu”, trở về hoạt động chính trị chống…“Cộng Việt”, di cư vào Sài Gòn sống ở đường Dạ Nam gần Cầu Chữ Y, trước tác dịch thuật một số tác phẩm chữ Hán ra quốc ngữ trong đó có quyển Minh Tâm Bảo Giám, trở thành một học giả năm nào cũng được Nhật Bản mời sang dự những hội nghị về … Hán Học, và sống thọ cho đến hàng chục năm sau ngày “Cộng” giải phóng miền Nam. Chú Lê Phục Thiện của bên Nội của bà mẹ vợ của Thạc sĩ Hoàng Hữu Phước đã chưa từng cùng bất kỳ các vị “đồng chí” nào của Phong Trào Đông Du trở thành danh nhân xây dựng Việt Nam thành cường quốc kỹ thuật công nghệ kinh tài quân sự khi sang du học tại đất nước Nhật Bản cường quốc kỹ thuật công nghệ kinh tài quân sự ấy…

Khi Pháp và Nhật ký hiệp ước với nhau năm 1908, Nhật trục xuất tất cả các du học sinh Việt Nam và Phan Bội Châu ra khỏi đất Nhật, biến Phong Trào Đông Du tan thành mây khói, sự cầu viện Nhật sang đánh đuổi Pháp biến thành bánh vẽ, còn Phan Bội Châu chấm dứt ca ngợi Nhật Bản như đã từng lầm lạc ngợi ca tận mây xanh trong tác phẩm Á Tế Á Ca. Nhà chí sĩ vĩ đại của Việt Nam đã “bé cái lầm”, song luôn được sử sách Việt Nam làm ngơ, cứ như thể ra chỉ thị “miễn phê phán”, “chớ phê bình”, “cấm chê bai”, kẻo Sử Ký nước nhà chẳng có ai là bậc hiền tài để dân tộc tự hào khoe với nhân loại cả.

2- Trước đó, Phan Bội Châu đã phải “đẫm lệ” với Lang-Kỳ-Chao (tiếng Anh phiên âm thành Liang Qichao sử dụng toàn cầu, còn các trí thức Việt chẳng biết dựa vào quy định nào trong sách nào mà đặt tên mang tính thần thánh hóa mỹ miều thành Lương Khải Siêu) thở than cho vận nước và mong muốn thỉnh mời Nhật vào giải phóng quê hương khỏi ách xâm lược của Pháp, chỉ để Lang-Kỳ-Chao trịch thượng cho ra một lời khuyên cực kỳ sơ đẳng nghe na ná giông giống cụm từ “đừng có ngu mà cõng rắn cắn gà nhà” mà đứa trẻ biết chữ nào của Việt Nam cũng thuộc nằm lòng.

3- Sau khi bị trục xuất khỏi Nhật Bản, Phan Bội Châu sang Tàu cùng 50 thanh niên cày cấy luyện tập võ nghệ chờ ngày về Việt Nam đánh quyền đá cước “phục quốc”, từ bỏ chủ nghĩa quân chủ hướng sang chủ nghĩa dân chủ kiểu Tàu, lập Đảng theo kiểu Tàu.

4- Mọi nhà trí thức đều biết Phan Bội Châu không những tôn thờ Lê-nin; viết sách về Lê-nin, chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội; ca ngợi Các-Mác, Lê-nin cùng với Khổng Mạnh; mà lại còn đặc biệt xem Nguyễn Ái Quốc là thánh nhân giáng hạ phàm trần.

Thế nhưng, mặc cho các điểm 1, 2, 3, và 4 ở phần III.A này về nhân vật Phan Bội Châu, toàn bộ “giới tinh hoa trí tuệ” của Việt Nam Cộng Hòa – và của bọn “tinh hoa trí tuệ” ba rọi nữa nạc nữa mỡ si mê “xã hội dân sự” và “lương tâm nhân quyền” tại Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – đều ngó lơ, không nhắc đến, chỉ luôn bù lu bù loa rằng Phan Bội Châu là nhà chí sĩ yêu nước đã lập nên Phong Trào Đông Du rồi chấm hết ngang xương lãng xẹt, khiến học sinh nào thông minh sẽ nhận ra ngay rằng các hào quang quanh đầu Phan Bội Châu trong sử sách Việt Nam Cộng Hòa đều là sản phẩm của….chiến tranh chính trị chống Cộng mà ra.

Và cũng thế nhưng, mặc cho các điểm 1, 2, 3, và 4 ở phần III.A này, mỗi khi nói về nhân vật Nguyễn Trường Tộ, người ta vẫn viết về ông như một người hết lòng vì nước vì dân. Không bàn về những luận điểm về nhân vật Nguyễn Trường Tộ mà biết bao người Việt Nam thông tuệ – trong đó có nhân tài nước Việt Trần Chung Ngọc – mắng là quân phản quốc, bài này chỉ nêu một sự thật chưa từng ai nói đến rằng xin đừng vì Nguyễn Trường Tộ nêu điều mới lạ mà bảo triều đình Việt Nam thủ cựu, “từ chương”, không nghe theo các tấu chương hiến kế “cải cách” của y, vì rằng ai là người ở cái đất nước Việt Nam này sẽ theo học “trường nghề” mà y kiến nghị hãy mở ra để dạy nghề đóng sửa thuyền tàu cơ chứ? Các “sĩ phu” chuyên chê bai lao động chân tay hạ cấp chẵng lẽ sẽ xếp bút nghiên theo nghiệp thuyền bè ư?

Chính yếu điểm quá lộ liễu này về trình độ tư duy chính trị của giới tinh hoa phi cộng sản mang tính lạc hậu, cổ hủ, phản tiến hóa, gian giảo, nơi những con người bất khả tư nghị và bất tài vô dụng, mà ngẫu nhiên tạo nên một lợi thế giúp Chủ Nghĩa Cộng Sản chỉ trụ vững ở Việt Nam khi tất cả những bậc hiền nhân quân tử thật sự thông tuệ ở Việt Nam đều dần nhận ra 4 chân lý rằng:

(a) Sự dựa dẫm vào một thế lực vật chất bên ngoài là điều đương nhiên của cách mạng, như Phan Bội Châu hết dựa vào Nhật đến Tàu, Ngô Đình Diệm dựa vào Mỹ, Nguyễn Văn Thiệu dựa vào Mỹ, Hồ Chí Minh dựa vào Liên Xô. Do vậy, vấn đề là ai đã khôn ngoan chọn đúng thế lực để chiến thắng lưu danh thiên cổ, ai đã ngu xuẩn giao trứng cho ác để lưu xú vạn niên. Do vậy, việc công kích Hồ Chí Minh đã dựa thế lực bên ngoài như “Liên Xô hay Tàu” đều là việc làm của kẻ bại trận mất tư cách chiến binh, và người thông tuệ Việt Nam rốt cuộc phải công nhận sự thật rằng Hồ Chí Minh đã chiến thắng, và cộng sản đã chiến thắng.

(b) Sự dựa dẫm vào một vũ khí tinh thần ngoại lai là điều đương nhiên của cách mạng, nhất là khi giới tinh hoa trí thức Việt Nam hoàn toàn không có hành trạng tư duy chính trị như đã phân tích ở Phần I để có khả năng đề ra bất cứ một tân triết thuyết chính trị nào. Phan Bội Châu hết dựa vào học thuyết Đại Đông Á của Nhật Bản cùng sự thành công của Nhật Bản đến tư tưởng “dân quốc” của Tàu; còn Hồ Chí Minh dựa vào học thuyết cộng sản Mác-Lê, khôn ngoan không chấp nhận cái biến thể của chủ nghĩa Mác-Mao Tàu (Marxism-Maoism) hay chủ nghĩa Mác-Tito Nam Tư (Marxism-Titoism), đồng thời khôn ngoan lồng ghép với chủ nghĩa ái quốc hình thành nên Hệ Tư Tưởng Hồ Chí Minh thay vì tập trung cho một thứ mông muội gọi là chủ nghĩa Mác-Hồ (Marxism-Hoism). Chính Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu cũng dần nhận ra rằng không thể làm chính trị mà không có một đảng chính trị, nên kẻ trước tạo ra Đảng Cần Lao Nhân Vị còn tên sau đẻ ra Đảng Dân Chủ (mà chỉ có Hoàng Hữu Phước biết đến và nêu ra trên blog khiến bọn hải ngoại dựa vào đó sáng tạo lung tung cứ như thể cái Đảng đó có thật và chúng có biết, cũng như để tự cứu thể diện do Việt Nam Cộng Hòa bị Hoàng Hữu Phước gọi là quốc gia của bọn độc tài Zero Đảng). Cả hai tên này còn nhận ra rằng đảng chính trị phải có cương lĩnh dựa theo một triết thuyết chính trị nào đó; vì vậy Ngô Đình Diệm soạn ra cái gọi là chủ nghĩa cần lao nhân vị, còn tên võ biền Nguyễn Văn Thiệu nín thinh. Do vậy, việc công kích Phan Bội Châu hay Hồ Chí Minh đã dựa vào một vũ khí tư tưởng bên ngoài đều là việc làm của kẻ bại trận mất tư cách trí tuệ. Do vậy, vấn đề là ai đã khôn ngoan chọn đúng vũ khí tư tưởng để chiến thắng lưu danh thiên cổ, ai đã ngu xuẩn như Ngô Đình Diệm lấy Cơ Đốc Giáo làm tư tưởng soi đường chính trị hoặc Nguyễn Văn Thiệu xem hai chữ “chống Cộng” thay cho một hệ tư tưởng chính trị để rồi lưu xú vạn niên. Và người thông tuệ Việt Nam rốt cuộc phải công nhận sự thật rằng Hồ Chí Minh đã chiến thắng, và cộng sản đã chiến thắng.

(c) Sự dựa dẫm vào một thế lực nhân sự bên trong là điều đương nhiên. Lenin và Stalin không thể thành công nếu không có lực lượng nhân sự bên trong nước Nga. Mao-Xế-Tùng không thể thành công nếu không có lực lượng nhân sự bên trong nước Tàu. Hồ Chí Minh không thể thành công nếu không có lực lượng bên trong nước Việt Nam. Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều có lực lượng nhân sự bên trong nước Việt nhưng lại thất bại hoàn toàn. Vấn đề, do đó, chỉ đơn thuần là chất lượng của nhân sự bên trong ấy ra sao. Lực lượng nhân sự bên trong nước Việt Nam của Hồ Chí Minh được hun đúc bằng 6 sức mạnh của (i) chủ nghĩa ái quốc, (ii) chủ nghĩa cộng sản, (iii) tư tưởng Hồ Chí Minh, (iv) tinh thần chống Mỹ xâm lược, (v) tư thế của chính nghĩa quốc tế do Hiệp Định Geneve đem lại, và (vi) sự đồng tâm trên bình diện toàn dân toàn quốc. Lực lượng nhân sự bên trong nước Việt Nam của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu không được hun đúc từ một sức mạnh bất kỳ, vì chỉ có “chủ nghĩa” chống Cộng hoàn toàn phi-chủ-nghĩa, không có chủ nghĩa ái quốc mà chỉ có chủ nghĩa chư hầu muốn làm một “tiểu bang” của Mỹ, không có hệ thống chủ nghĩa tư tưởng chính trị chủ đạo nào bất kể tương đương hoặc tốt hơn chủ nghĩa cộng sản, không có tư tưởng uyên bác uyên thâm nào của tất cả các lãnh đạo quốc gia trừ câu nói bộc lộ sự ngu xuẩn khôi hài của kẻ ngu đần không hiểu binh pháp Tôn Võ rằng “đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”, còn “chống Bắc Việt xâm lược” là một khẩu hiệu cực kỳ ngu đần tự lột mặt nạ quá khứ hủy phá Hiệp Định Geneve, ước ao chia cắt vĩnh viễn đất nước nên mới dùng từ “xâm lược” để phân định vĩnh viễn sự chia cắt xem “Bắc Việt” là “ngoại bang”, nhưng vẫn không tránh né được cái thực thể Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tồn tại ngay bên trong và tại toàn bộ Việt Nam Cộng Hòa, và hoàn toàn chỉ có sự đồng tâm của giáo dân Công Giáo di cư chứ không của toàn bộ dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Và người thông tuệ Việt Nam rốt cuộc phải công nhận sự thật rằng Hồ Chí Minh đã chiến thắng, và cộng sản đã chiến thắng.

(d) Sự dựa dẫm vào một thế lực nhân sự bên ngoài là điều đương nhiên trong lịch sử đó đây của loài người. Vấn đề ở đây sẽ chỉ là: ai dựa dẫm khôn ngoan nhất, chính đạo nhất, và thành công tuyệt đối. Lê Chiêu Thống dựa dẫm Tôn Sĩ Nghị của Tàu và lưu xú vạn niên. Quang Trung Nguyễn Huệ qua Tàu hành lễ bảo tất quỳ ôm gối Càn Long nhận Càn Long làm vua cha, được sử sách Việt Nam sáng tạo ra sự việc bảo toàn danh dự rằng Quang Trung Nguyễn Huệ cử người có ngoại hình giống mình đi thay trong khi người thông tuệ hiểu ngay rằng (i) ngay cả có việc cử người đi thay chăng nữa thì lẽ nào lại không được giữ làm thông tin tuyệt mật quốc gia không thể huỵch toẹt khoe ra để chọc giận “Thiên Triều”, (ii) nếu cái người đi thay ấy có thật thì lẽ ra đã bị thủ tiêu diệt khẩu, (iii) nếu cái người đi thay ấy có thật mà không bị giết diệt khẩu thì sau đó đã được thăng chức gì và con cháu người ấy hiện gồm những ai, và (iv) nếu cái người ấy “đi thay” thì cũng làm quốc gia bị ô danh rằng “vua Việt quỳ ôm gối vua Tàu” chứ nào tránh được sự đàm tiếu của nhân gian. Nguyễn Văn Thiệu dựa dẫm vào các cố vân quân sự Hoa Kỳ rồi đón các quân đoàn viễn chinh gần triêu người từ Mỹ, Đại Hàn, Úc, Thái, Phi, New Zealand vào Việt Nam đánh Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, không những tạo cớ cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tuyên bố chính nghĩa chống xâm lược, mà còn biến lực lượng quân sự này trở nên vĩ đại vì chỉ mỗi du kích quân của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam thôi mà quân đội hỗn hợp Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, Đại Hàn, Úc, Thái, Phi, New Zealand vẫn không sao thắng được. Đến khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kéo rốc đại binh chính quy ào ạt tiến xuống phương Nam hỗ trợ dân quân Mặt Trân Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam thì toàn bộ quân đội viễn chinh ngoại bang hỗn hợp với quân lực Việt Nam Cộng Hòa ấy tạo nên cuộc tháo chạy to nhất, nhanh nhất, điếm nhục nhất, hỗn loạn nhất, tàn tệ nhất, vô nhân tính nhất, trong toàn bộ lịch sử quân sự của loài người từ khi loài khủng long bị tận diệt cho đến lúc loài người bị Tận Thế. Trong khi đó, Hồ Chí Minh chỉ dựa dẫm vào một số ít các chuyên gia nước ngoài từ Liên Xô, Tàu, hay Triều Tiên cho những nhu cầu huấn luyện sử dụng khí tài quân sự hiện đại, không tạo cớ cho bất kỳ một xúc xiểm bất kỳ nào từ phía đối phương. Và người thông tuệ Việt Nam rốt cuộc phải công nhận sự thật rằng Hồ Chí Minh đã chiến thắng, và cộng sản đã chiến thắng.

B) Sự Bất Tương Hợp Với Học Thuyết Cộng Sản Chủ Nghĩa

Do Việt Nam chưa từng là một quốc gia phát triển để có tư bản, để có giai cấp công nhân, chủ nghĩa cộng sản trở nên bất tương hợp trên bình diện mô phỏng máy móc, áp dụng máy móc, và giáo điều máy móc.

Để đưa được chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam một cách tương hợp, Hồ Chí Minh đã sáng tạo hình thức tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc huy động toàn bộ nhân lực toàn dân cho đại cuộc chống ngoại xâm, giải phóng quê hương, thống nhất đất nước, dưới ngọn cờ thống lĩnh duy nhất của chủ nghĩa cộng sản.

Chính sự bất tương hợp của chủ nghĩa cộng sản đối với hoàn cảnh Việt Nam đã giúp các nhà lãnh đạo cộng sản phi-giáo-điều của cách mạng Việt Nam sáng tạo bổ sung, uốn nắn học thuyết customization, và chiến thắng, làm chủ nghĩa cộng sản trụ vững tại Việt Nam.

C) Đặc Thù Dân Tộc Tính: Cực Đoan

Đặc điểm mang tính dân tộc đặc thù của người Việt là cực đoan.

Tính cực đoan ấy toàn thế giới biết rõ nhất trong kinh hoàng khi nhận thông tin đáng tin cậy từ một công dân Việt Nam đáng kính rằng các tín đồ Thiên Chúa Giáo (Công Giáo và Tin Lành) ở Việt Nam kỳ thị tôn giáo, tự mãn thượng đẳng, bất tuân giáo luật, thờ phượng giáo phẩm, xâm hại nhân quyền, chà đạp tự do tín ngưỡng của cộng đồng, như thể hiện đầy ngạo mạn dưới triều đại mọi rợ man di của Ngô Đình Diệm và qua việc giáo dân cho đến Thế Kỷ XXI này mà vẫn còn tiếp tục tự bày ra các đòi hỏi buộc người phối ngẫu có tín ngưỡng khác phải vào đạo Thiên Chúa.

Tính cực đoan ấy cộng với mưu đồ quyền lực cá nhân đã như thể hiện rõ nét của Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp Định Geneve và của Nguyễn Văn Thiệu phá hoại Hiệp Định Paris, thà để dân tộc điêu linh chứ dứt khoát không “sánh vai” với “Cộng sản Bắc Việt” trong bất kỳ cuộc tổng tuyển cử nào để thống nhất đất nước, dứt khoát không sẻ chia quyền lực trị quốc, không chấp nhận “Đa Đảng” với Cộng sản.

Chính sự cực đoan mang dấu vết dân tộc tính ấy đã đẩy Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu vào ngõ diệt vong, vì khi dựa dẫm vào sức mạnh cơ bắp để phát huy dân tộc tính cực đoan đối đầu với đối thủ, buộc đối thủ cũng phải thi thố cùng cái dân tộc tính cực đoan ấy thì phần thắng đương nhiên luôn thuộc về phía mạnh hơn và sự tiêu diệt là phần dành cho bên thua trận. Trong cuộc đối đầu không khoan nhượng trong cái mà thế giới gọi là Chiến Tranh Việt Nam thì phía mạnh hơn là bên mà phía Việt Nam Cộng Hòa gọi là “Cộng Sản Bắc Việt”. Kết quả này đã dẫn đến một nẽo đường đơn cực trong chính trị Việt Nam: không có sẻ chia quyền lực qua tổng tuyển cử mà chỉ có quyền lực trong tay bên thắng trận trong cuộc quyết đấu do Việt Nam Cộng Hòa khởi phát. Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đã xé nát cơ hội cho một nước Việt Nam “đa đảng”. Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu là “đầu têu” cho một cực đoan Việt Nam “độc đảng” hoặc “zero đảng” bằng cách phá hoại các hiệp định hòa bình quốc tế về Việt Nam và tập trung tiêu diệt Đảng Cộng Sản bằng mọi giá – kể cả mong muốn Mỹ sử dụng bom nguyên tử tấn công “Bắc Việt”. Rốt cuộc, Việt Nam Cộng Hòa vẫn chỉ là một thực thể Zero Đảng lưu manh đàng điếm chuyên gây hấn để tự gây ra họa diệt vong, và Đảng Cộng Sản Việt Nam bị buộc phải trở thành thế lực chính trị duy nhất còn lại ở Việt Nam, hình thành một nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “độc đảng” trên nền lịch sử một Việt Nam Cộng Hòa “zero đảng” hiếu chiến và hiếu sát bị tiêu diệt.

Có thể nói: cái dân tộc tính cực đoan độc tôn của Việt Nam đã thúc đẩy sự đối đầu không khoan nhượng, dẫn đến sự bĩnh trị độc tôn của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.

IV- Ba Yếu Tố Đe Dọa Sự Tồn Tại Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Ở Việt Nam

Tuy chủ nghĩa cộng sản trụ vững ở Việt Nam, vẫn có manh nha 3 dọa đe sau cho sự trụ vững ấy.

A) Sự Bất Khả Tương Hợp Của Lý Thuyết Và Thực Hành Trong Chính Trị Và Trị Chính

1- Chống Tham Nhũng:

Chỉ sau khi Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng nắm giữ quyền bính tối cao trong Đảng, đại cuộc chống tham nhũng mới bước từ lý thuyết trừu tượng bầy sâu ra thực tế đời sống những bản án chốn pháp đình dành cho những đảng viên cao cấp từ ủy viên Bộ Chính Trị như Đinh La Thăng đến các tướng lĩnh lãnh đạo trong Bộ Quốc Phòng và Bộ Công An. Điều này cũng đồng nghĩa với nội hàm rằng từ 30-4-1975 cho đến sát trước Thời Đại Nguyễn Phú Trọng (The Nguyen Phu Trong Era) tham nhũng đã được tạo điều kiện cho sự lan tràn nhũng nhiễu mà các khiếu kiện kéo dài nhiều chục năm của lương dân ở Thành Phố Hồ Chí Minh và các thất bại thất thoát thất kinh của các siêu dự án cũng của Thành Phố Hồ Chí Minh là minh chứng, và toàn bộ các lãnh đạo Đảng và lãnh đạo chính quyền của Thành Phố Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lẽ ra đã phải chịu trách nhiệm trước tổ quốc và dân tộc Việt Nam ngay khi họ nhúng chàm, không thể có đủ tư cách để sau đó ra trung ương trở thành lãnh đạo Nhà Nước và lãnh đạo chính phủ.

Hồ Chí Minh không thể là người đã rèn luyện nên những học trò tắc trách, vô trách nhiệm, đồng hóa tan chảy vào bãi đàm nhớt kinh tởm mang tên tham nhũng bất lương phản phúc phản Đảng phản quốc như thế.

2- Giám Sát Và Trách Nhiệm:

Những đấng nắm quyền lực trước Thời Đại Nguyễn Phú Trọng đã rắp tâm hủy phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bằng những hạ sách quái gở phục vụ lợi ích nhóm, trong đó nổi bật nhất là việc (a) trao cho “nhà báo” các “thượng phương bảo thẻ” được tự tung tự tác dìm đầu đè cổ trấn áp vô hiệu hóa uy lực của Công An hầu trở thành thế lực phục vụ cho thanh thế riêng cá nhân một lãnh đạo chính quyền để đương đầu với các lãnh đạo còn lại trong Bộ Chính Trị như phân tích trong Bài Viết Mong Được Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng Biết Đến: Đảng Loạn, và (b) sử dụng bọn con nít bất tài vô dụng nhưng dễ sai bảo như tỏ tường cũng trong bài ấy chỉ để dựng nên những đấng lãnh đạo có phong cách như đám con nít cà tửng cà tửng làm chính trị mà thôi. 

B) Sự Thất Bại Hoàn Toàn Của Chính Sách Và Thực Hành Trong Dụng Nhân

Phần IV.A.2 ở trên cho thấy vấn nạn đã trở thành nan giải đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam là trong cung cách kỳ thị cực đoan đối với khâu dụng nhân.

Về chính sách, Đảng đã sa lầy trong cái gọi là đào tạo nhân tài trong khi không hiểu nhân tài là gì và những gì cần và đủ để có được một nhân tài. Những kẻ đã tư vấn cho Đảng đầu tư khổng lồ vào đào tạo nhân tài dứt khoát chỉ vì muốn hưởng 4 lợi lộc của (a) đưa con em của chính mình vào danh sách du học nước ngoài bằng tiền thuế của dân, (b) tạo điều kiện cho con em của chính mình sau khi du học trở về có đủ cái gọi là “trình độ” để ngồi vào các vị trí quản lý cấp cao dù không kinh qua thực tế làm việc thành công bất kỳ, (c) có các suất du học để nịnh bợ cấp trên hoặc để vòi tiền hay đòi ân huệ từ những cán bộ cần các suất ấy cho con em của họ, và (d) nhận các “lại quả” từ các tổ chức kinh doanh du học nào thụ hưởng khoản USD khổng lồ do Đảng đầu tư từ tiền thuế của dân.

Trong thực hiện chính sách dụng nhân, Đảng đã sa vào bãi lầy tự tạo mang tên kỳ thị bất công khi gián tiếp phủ nhận thành quả học tập tự lập chủ động của con em các gia đình Ba Không (không có công với cách mạng, không là đảng viên, không được đào tạo từ tiền đầu tư khổng lồ của Đảng), mặc nhiên thừa nhận chỉ có sự đầu tư do Đảng bỏ tiền USD khổng lồ từ tiền thuế của dân ra đào tạo nhằm vào các đảng viên trẻ hoặc con em cán bộ cao cấp của Đảng thì đất nước mới có nhân tài. Bằng cách gọi các công chức trẻ vừa tốt nghiệp đại học chưa làm việc ở đâu là “trí thức trẻ”, Đảng đã khẳng định vừa xem quá nhẹ ý nghĩa và tầm vóc của nhà trí thức vừa muốn ngụ ý tất cả các đảng viên của Đảng đều là nhà trí thức do đa số có bằng cấp cử nhân, biến Đảng là tổ chức của toàn những nhà trí thức nên tự động đủ sức lèo lái con tàu đất nước trong thời đại mới tân kỳ phức tạp.  Qua việc “gởi ra nước ngoài đào tạo thạc sĩ tiến sĩ”, Đảng đã hé lộ rằng tư tưởng trọng bằng cấp đã trở thành lực chủ đạo khống chế công tác dụng nhân của Đảng, qua đó, bằng cấp thay vì chỉ là chứng thực kết quả một quy trình thi cử có các bài đạt cơ số tổng điểm yêu cầu của nhà trường đối với một môn hay ngành học cụ thể mà cá nhân học viên quan tâm riêng để hoặc thỏa mãn cái tôi hoặc có thể cạnh tranh cho một công việc có thể giúp thực thi cái đã học thì lại được Đảng xem như sự chứng nhận tài năng, đẳng cấp, tài ba quản trị cấp Nhà Nước để ngồi vào vị trí quản lý cấp cao mà không cần phải kinh qua thời gian làm việc hiệu quả như bó buộc đối với “con cái của dân đen”.

Chính sự dụng nhân kỳ thị cực đoan kỳ dị phản-Hồ-Chí-Minh như trên mà Đảng đã gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng trong đó có 3 vấn nạn nổi bật nhất gồm

1- Sự thờ ơ của toàn dân – do số lượng đảng viên chỉ là phần nhỏ so với dân số cả nước – đối với quy trình học tập trong nước-thi cử trong nước-tìm việc trong nước, dẫn đến tư tưởng mất niềm tin vào sự công minh công bằng, và thực hiện ngay khi có thể được việc xuất ngoại du học và tìm cách tìm việc ở ngoài nước, khiến tiềm lực nhân sự giỏi và nhân sự tài nếu có chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay của một bàn tay đủ ngón thế mà nhân dân cũng không hề biết tên đầy đủ của ai và những ai đang ngồi xỗm trên các đầu ngón tay ấy.

2- Sự bố trí sai nhân sự do không có nhân sự đúng để bố trí mà ngay cả khi quy trình bố trí cán bộ có chặt chẽ và nghiêm minh nghiêm túc đến đâu chăng nữa (do số lượng nhân sự Đảng có trong tay – qua trực tiếp đầu tư đào tạo – thì không bất kỳ ai có kiến thức đầu tư đào tạo, có kinh nghiệm đầu tư đào tạo, và có chịu trách nhiệm về chất lượng đầu tư đào tạo) thì nhân sự chất lượng tồi đương nhiên không thể phục vụ đất nước nhân dân ở tầm vóc và hiệu quả mà Đảng kỳ vọng.

3- Các sai phạm va vấp tiêu cực thậm chí có cả trọng án ở tất cả các lĩnh vực từ giáo dục, y tế, pháp đình, quân đội, công an, công thương, đến đầu tư, tài chính, ngân hàng, công nghiệp, v.v., chứng minh Đảng đã sai vì có đội ngũ hoạch định chính sách dụng nhân tồi, đội ngũ tư vấn chiến lược dụng nhân tồi, đội ngũ thực hiện dụng nhân tồi, mà tất cả các nhân sự của các đội ngũ tồi tệ này đều do Đảng đào tạo, đánh giá, bố trí, và không chịu trách nhiệm về họ.   

C) Quyền Lực Nhũn Xèo

Phần này được phân tích trong bài Quyền Lực Nhũn Xèo

V- Ba Biện Pháp Để Cộng Sản Việt Nam Vững Vàng Tiến Được Qua Thế Kỷ XXII: Chủ Nghĩa Cộng Sản Dân Tộc Thiên Khổng

A) Chủ Nghĩa Cộng Sản Dân Tộc Thiên Khổng: Yếu Tố Định Luật

1- Bản Sắc Hồ Chí Minh:

Tuyệt đại đa số người Việt từ thời tiến hành cuộc Trường Di rời Động Đình Hồ xuôi vạn lý về phương Nam cho đến lúc Thế Kỷ XX bước vào ba thập kỷ cuối cùng thì vẫn luôn thắm đượm tinh thần tích cực, văn hóa tích cực, lối sống tích cực, và cách nhìn tích cực có ảnh hưởng tỏa lan tích cực. Sự tích cực ấy là từ tư duy và qua thể hiện tổng hợp của 8 phạm trù hiếu, dũng, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và tôn ty quân-thần/phụ-tử/phu-thê, tất cả hình thành các khuôn mẫu khuôn phép bài bản cho con người tiến ra xã hội với quy trình bất di bất dịch 4 bước miên viễn đúng tuyệt đối đúng của tu thân-tề gia-trị quốc-bình thiên hạ. Tất cả ngần ấy thứ phạm trù tích cực và quy trình miên viễn đúng đều do từ giáo dục gia đình chứ không từ trường học. Gia đình là cha mẹ cùng các bậc trưởng thượng. Chính nhờ giáo dục gia đình mới tạo nên những người con hội đủ 8 phạm trù và có nhận thức về quy trình 4 bước. Và những người con như vậy tự trở thành những con người có trách nhiệm cao nhất, tiền đề cho sự hình thành những nhà ái quốc.

Lịch sử Việt Nam lưu danh bao vị anh hùng ái quốc. Và các phân tích ở trên phác họa tiến trình phải qua cùng những đức tính cao quý phải có nơi những nhà ái quốc.

Xuất phát từ gia giáo như thế, Nguyễn Ái Quốc là một nhà ái quốc, là người con của hai đấng sinh thành cũng là hai nhà ái quốc. Nhờ gia giáo, Phan Bội Châu là một nhà ái quốc, là người con của hai đấng sinh thành cũng là hai nhà ái quốc. Dù thành công hay thất bại, họ đều là những nhà ái quốc đã vì nước vì dân mà hy sinh các hưởng thụ cá nhân để gian nan lao lung kiếm tìm phương cách họ cho là tốt nhất để cứu nước cứu dân.

Tuy nhiên, không thể đoan chắc rằng học trò của Phan Bội Châu có gia giáo tương tự Phan Bội Châu để trở thành những nhà ái quốc nối chí Phan Bội Châu. Đó là lý do không bất kỳ ai dưới thời Việt Nam Cộng Hòa được thế giới biết đến như một nhà ái quốc Việt Nam.

Tất nhiên, không thể đoan chắc rằng học trò của Hồ Chí Minh có gia giáo tương tự Hồ Chí Minh để trở thành những nhà ái quốc nối chí Hồ Chí Minh. Đó là lý do chưa bất kỳ ai dưới thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được thế giới biết đến như một nhà ái quốc Việt Nam.

Không có tính cách mang bản sắc Hồ Chí Minh, không đảng viên cộng sản nào là nhà ái quốc. Đã không có lực lượng nhân sự toàn là nhà ái quốc, Đảng chỉ có những đảng viên trong danh mục 11 loại đảng viên được liệt kê ở phần V.C tựa đề “Trị Quốc Theo Mô Hình Hoàng Hữu Phước” bên dưới, mà cả 11 loại này đều không thể giúp Đảng Cộng Sản Việt Nam vững vàng tiến được qua Thế Kỷ XXII.

Định luật 1: Muốn chủ nghĩa cộng sản không bị tiêu diệt ở Việt Nam, các đảng viên Cộng sản phải là những nhà ái quốc hội đủ bản sắc Hồ Chí Minh.

2- Cộng Sản:

Chủ nghĩa cộng sản là tác phẩm trí hóa mới nhất của nhân loại. Từ sau sự xuất hiện của chủ nghĩa này trong đời sống chính trị thế giới, cho đến nay chưa hề có một hệ tư tưởng nào khác, bất luận hệ tư tưởng ấy nghiêm túc hay diễu hề. Đặc biệt, chủ nghĩa cộng sản phát huy tác dụng một cách đầy thuyết phục và cực kỳ khủng khiếp trong 9 mặt sau:

a) Tiêu diệt hoàn toàn tất cả các đế quốc thực dân toàn cầu, dẫn đến giải phóng toàn bộ các thuộc địa trên toàn thế giới;

b) Tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc mới của Mỹ;

c) Hình thành siêu cường đối trọng của toàn thế giới tư bản: Liên Xô;

d) Tiêu diệt Đức Quốc Xã, quyết định sự kết liễu Đệ Nhị Thế Chiến, khiến Mỹ phải vội vàng sử dụng bom nguyên tử với Nhật Bản để giành lấy cơ hội chấp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản để được mang danh có vai trò to lớn tương tự Liên Xô.

e) Hình thành Khối Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Âu;

f) Trở thành công cụ hữu hiệu hình thành siêu cường bành trướng bá quyền Trung Quốc đe dọa sức mạnh Hoa Kỳ và dọa đe toàn thế giới;

g) Trở thành công cụ hữu hiệu trong tay những nhà ái quốc Việt Nam trong tiêu diệt Việt Nam Cộng Hòa, oanh liệt đuổi xua tống khứ các quân đoàn viễn chinh Mỹ và đồng minh trong cuộc tháo chạy tán loạn hỗn loạn chưa từng có tiền lệ trong lịch sử quân sự của nhân loại, hình thành nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thống nhất trở thành quốc gia không những tiêu diệt chế độ diệt chủng Khmer Đỏ Kampuchea, đánh tan cuộc xâm lược của Trung Quốc, đánh bại lịnh cấm vận của Mỹ và đồng minh để vươn lên giữ vị thế đối tác chiến lược của các cường quốc trong phát triển kinh tế, quan hệ đối ngoại, và chặn ngăn sự bành trướng của bá quyền Trung Quốc xuống Nam Bán Cầu;

h) Biến đổi hoàn toàn thế giới tư bản từ chủ nghĩa bóc lột giai cấp vô sản sang chủ nghĩa dân túy dựng xây nhiều hơn các phúc lợi cho người lao động, nghĩa là khiến giới tư bản toàn cầu buộc phải chi ra nhiều hơn từ các lợi nhuận; và

i) Lột mặt nạ thế giới Âu Mỹ rằng đã chưa hề có chủ nghĩa chống Cộng mà chỉ có chủ nghĩa bài Nga do Nga đã không còn là quốc gia cộng sản; qua đó chứng minh chống cộng là nội hàm xằng bậy, không có thật, mà chỉ có chống Việt hay bài Việt, biến tất cả các phe nhóm Việt phản động trở thành bọn hề xuản ngốc cực đoan do nhân loại chưa từng có ai chống đất nước của mình bao giờ.

Do hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa có sức mạnh khủng khiếp đến vậy, Việt Nam nhất thiết phải duy trì hình thức của chủ nghĩa cộng sản trong thể chế chính trị của mình. Đây là một yếu tố quan trọng, song chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ. Liên Xô và toàn bộ Khối Xã Hội Chủ Nghĩa bị diệt vong do đã không hội đủ 4 yếu tố mang tính định luật như nêu trong phần V.A. này.

Định luật 2: Muốn Việt Nam tồn tại trước nanh vuốt Trung Quốc được hỗ trợ bởi bọn người Việt và người gốc Việt chống Việt, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải không bị tiêu diệt ở Việt Nam.

3- Dân Tộc:

Chủ nghĩa dân tộc luôn tồn tại mang tính trỗi vượt rõ nét nơi những người yêu nước và những nhà ái quốc. Theo luận cứ trong bài này, người yêu nước không phải là từ thuần Việt của nhà ái quốc. Người yêu nước tồn tại ở tất cả các quốc gia ở tất cả các thời đại. Hitler, Stalin, Tito, Kim Jong-un, Donald Trump, Xì-Dính-Bình, v.v. là những người yêu nước. Hồ Chí Minh là nhà ái quốc. Những nhà ái quốc đều đồng thời mặc nhiên là những người yêu nước; song, người yêu nước cần phải có các bản sắc cao vời mới trở thành nhà ái quốc. Do tất cả những nhà ái quốc và những người yêu nước đều dân tộc chủ nghĩa từ bản chất, bất kỳ nhà chính trị nào cổ súy cho chủ nghĩa đại đồng hoặc biến thể hiện đại của nó là chủ nghĩa toàn cầu hóachủ nghĩa hội nhập đêu là hoặc (a) ngu xuẩn bầy đàn, hoặc (b) gian ngoan ngụy trang. Và một khi chủ nghĩa dân tộc từ vị trí tàng ẩn tự nhiên tự thân nơi tư duy con người tiến ra ngạo nghễ tự hào công khai thách thức thế giới chính trị toàn cầu như đang thống lĩnh sinh hoạt chính trị hiện nay, những lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhất thiết phải đặt Việt Nam Trên Hết làm tư tưởng chủ đạo cực đoan. Hãy hoặc công khai tự hào như Donald Trump và Hoàng Hữu Phước, hoặc gian ngoan ngụy trang. Không bao giờ được phép ngu xuẩn bầy đàn thực tâm ngợi ca cái xảo ngụy của chủ nghĩa toàn cầu hóachủ nghĩa hội nhập vốn chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có thật.

Định luật 3: Muốn chủ nghĩa cộng sản không bị tiêu diệt ở Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải tuân theo xu hướng thống lĩnh thế giới của thời đại mới mà Hoàng Hữu Phước đã cổ súy hơn 30 năm qua trên các diễn đàn tự do ngôn luận tại Việt Nam: khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa cho một tư duy duy nhất đúng của Việt Nam Trên Hết.

4- Thiên Khổng:

Hồ Chí Minh và những nhà cách mạng Cộng sản ái quốc cùng thời với Hồ Chí Minh đều xuất thân từ nền gia giáo thiên Khổng. Ngay cả nhiều người trong đám đông chống Hồ Chí Minh cũng có xuất thân tương tự.

Hồ Chí Minh dựng xây Đảng Cộng Sản Việt Nam và giáo dục đảng viên về đấu tranh giai cấp, về chủ nghĩa cộng sản, về đấu tranh chống thực dân đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc tiến đến thống nhất đất nước, về không có gì quý hơn độc lập tự do cho dân tộc, về tinh thần quốc tế vô sản, và về nội dung cụ thể phải làm vì nước vì dân. Hồ Chí Minh không bao giờ dạy bảo rèn luyện cán bộ về 8 phạm trù khuôn phép cùng 2 bước quy trình tu thântề gia, vì tất cả những nội dung này chỉ có từ tự thân và từ gia giáo. Hồ Chí Minh dựa vào những con người sẵn có các tố chất bản sắc người tài ấy để tạo điều kiện cho họ trị quốc để lãnh đạo họ vào đại cuộc bình thiên hạ. Cái uy đức của thánh nhân nơi Hồ Chí Minh giúp quy tụ quanh Người vô số những nhà ái quốc tạo nên lực lượng bất khả chiến bại.

Trong thời đại mới này, Đảng Cộng Sản Việt Nam khi kết nạp Đảng, sử dụng nhân sự đảng viên, bố trí giao việc lớn trị quốc trong guồng máy chính quyền các cấp cho cán bộ đảng viên, chỉ thuần trên 6 nội dung của 

(a) đúng quy trình kết nạp/dụng nhân/bố trí của Đảng;

(b) đạt yêu cầu “tư tưởng chính trị” qua các khóa “cao cấp lý luận chính trị” của Đảng;

(c) đạt yêu cầu “bằng cấp” do chính Đảng đài thọ chi phí đào tạo;

(d) đạt yêu cầu “thời gian/vị trí/nơi công tác của Đảng” dù không bao giờ làm việc từ cấp thấp đạt kết quả mỹ mãn mang tính nghiệp vụ chuyên môn theo thời gian mà chỉ ngồi ngay vào ghế lãnh đạo cấp cao để thừa hưởng thành quả dâng lên từ cán bộ thuộc quyền cấp thấp tại đơn vị “công tác”;

(e) đặt ưu ái cho thành phần đảng viên thuộc gia đình có công với cách mạng chứ không trên cơ sở gia đình gia giáo thiên Khổng; và

(f) Đảng không phải chịu trách nhiệm đối với bất kỳ hậu quả nào của việc kết nạp sai, đào tạo sai, sử dụng sai, bố trí sai.

Khi Đảng không hề có và không thể có chức năng rèn luyện đào tạo cán bộ Đảng có được 8 phạm trù khuôn phép cùng 4 bước quy trình, Đảng phải không được quên tầm quan trọng dứt khoát phải được tôn trọng của gia giáo.

Chưa kể, học đường là nơi phổ biến kiến thức và kiểm tra kiến thức chứ cũng không hề có và cũng không thể có chức năng rèn luyện 8 phạm trù khuôn phép đạo đức con người nhằm đáp ứng 4 bước quy trình bước vào xã hội một cách có tư cách và trách nhiệm của công dân. Việc rứt học sinh ra khỏi giáo dục gia đình bằng cách gia tăng thời gian ở trường của học sinh, giảm thiểu thời gian sinh hoạt ở nhà của học sinh, ngợi ca quá đáng vai trò giáo dục đạo đức của trường học mà bản thân học đường không bao giờ có, đã khiến làm biến mất toàn bộ cái gọi là gia giáo mà lẽ ra học sinh có quyền chính đáng được thụ hưởng, dẫn đến hậu quả là đạo đức học đường xuống cấp nghiêm trọng, đạo đức xã hội suy đồi, và Đảng không còn có thể có được lực lượng kế thừa nào trong sạch vững mạnh minh bạch liêm khiết tài năng.

Nghiên cứu tất cả các bài viết của Hoàng Hữu Phước về giáo dục và đào tạo, áp dụng mô hình trợ cấp cho những người vợ làm “nội trợ” như cơ chế từng có tại Việt Nam Cộng Hòa hay đang có tại nhiều cường quốc kinh tế Tây Âu, là những biện pháp nên làm để dần dần tái lâp sự giáo dục của gia đình đối với con cái của chính họ, dù ngay cả khi đề xuất vấn kế này có được áp dụng ngay trong tuần này thì cũng đã quá muộn màng: Việt Nam từ nay không thể có nhân tài và càng không thể có hiền tài – trừ khi Đảng tự đề cao ai đó hoặc tác giả bài viết này tự đề cao chính y như một hý hước của một nhà châm biếm bậc thầy duy nhất còn sót lại ở Việt Nam.

Định luật 4: Muốn chủ nghĩa cộng sản không bị tiêu diệt ở Việt Nam, các đảng viên Cộng sản phải là những nhà ái quốc hội đủ bản sắc Hồ Chí Minh, mà bản sắc ấy hình thành chỉ từ gia đình thắm đượm tinh thần ái quốc từ khuynh hướng thiên Khổng chủ đạo chứ tuyệt nhiên không bao giờ có được từ sự giáo dục cộng sản chủ nghĩa của Đảng Cộng Sản. Không trên nền thiên Khổng trong tu thân tề gia, dứt khoát không bao giờ nhận được sự tôn trọng tôn kính tôn sùng của người dân Việt để có thể nắm quyền trị quốc.

B) Áp Dụng Tuyệt Đối Cẩm Nang Trị Quốc Duy Nhất Đúng Miên Viễn Của Hồ Chí Minh

Vạn vật đều biến đổi. Thương hải biến vi tang điền. Trăm năm biển cả biến ruộng dâu. Ấy là khi xưa người ta tư duy còn hạn hẹp nên có khi cho rằng trăm năm ấy đã rất dài, còn có lúc lại cho thời gian chỉ như như bạch câu quá khích bóng câu vút ngang qua khe cửa hé mà thôi. Thế nên, miên viễn dùng trong phần này không với ngụ ý vĩnh cửu tức chống lại mọi định luật của tự nhiên, mà chỉ đơn giản mang nội hàm của một chân lý có thể áp dụng dài lâu nhất.

Hồ Chí Minh đã một cách thông tuệ để lại cho các học trò của Người một cẩm nang trị quốc có giá trị đúng miên viễn, và đó là câu “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Tuy nhiên, cái sự học nhiều đọc nhiều biết nhiều bằng cấp nhiều chỉ có thể đẩy một người vươn lên hàng ngũ người giỏi, song chỉ có quá trình hiểu đúng, diễn giải đúng, truyền đạt đúng, truyền bá đúng, áp dụng đúng, đạt hiệu quả đúng trong trị quốc mới biến người giỏi ấy thành bậc thông tuệ nhân tài và được lưu danh trong sử sách như những bậc hiền tài. Các đảng viên đẳng cấp cao nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam đều là học trò thật của Hồ Chí Minh, học trò tự nhận của Hồ Chí Minh, hoặc những người hiếu học luôn giương cao biểu ngữ học tập theo gương Hồ Chí Minh dù thực tế chỉ cho thấy sự ngỡ ngàng của người dân không rõ các vị hiếu học ấy học cái gì của Hồ Chí Minh và học được gì từ Hồ Chí Minh mà “học” mãi không thuộc và “hành” thì suy bại đến thế; song, dù thuộc bất kỳ nhóm nào trong các nhóm chuyên gia học tập này thì không có bất kỳ ai thông tuệ để vừa hiểu bí kíp thông tuệ ấy của Hồ Chí Minh vừa đem ứng dụng được cái sự hiểu ấy vào trị quốc để duy trì phong cách bách chiến bách thắng của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã tự hào tạo dựng.

Trong bài Thay Đổi Hệ Thống Chính Trị Tại Việt Nam ở phần “Cẩm Nang Bửu Bối Của Hồ Chí Minh”, tác giả Hoàng Hữu Phước có giảng giải rằng: “…tôi thấy cần khẳng định lại hai lập luận của tôi trong nhiều chục năm qua là: (a) tiến bộ của khoa học kỹ thuật cùng thực tế đời sống đã khiến những khái niệm hay quan niệm trước đây trở nên hoặc obsolete không còn phù hợp hoặc cần có các upgradation chỉnh lý nâng cao tương thích, và (b) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn xa trông rộng tiên tri thấu thị về những đổi thay mang tính thời đại mới ấy nên để lại cho các học trò một bửu bối trong trị quốc bình thiên hạ: đó là câu “Dĩ Bất Biến, Ứng Vạn Biến” với đại ý rằng cái gì có lợi cho độc lập dân tộc và quốc gia ổn định cường thịnh thì cứ biến hóa ra vạn cách để làm, ngõ hầu thực hiện cho được mục tiêu ấy chứ không cớ gì phải bám theo sát sàn sạt từng chữ một tất cả những lời Người đã dạy.”

Thực tế lịch sử Việt Nam hiện đại đã chứng minh, chứng kiến, chứng nhận các thành quả của hàng ngũ lãnh đạo Việt Nam từ “Dĩ Bất Biến” trong xác quyết ấn định cố định con đường dựng xây đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đến “Ứng Vạn Biến” thiên hình vạn trạng mà vài thí dụ điển hình như sau:

1- Ứng Vạn Biến 1: Không cần đánh tiếng trước với thế giới, chủ động đưa đại quân vào lãnh thổ nước Kampuchea “cộng sản anh em” để tiêu diệt quân Khmer Đỏ xâm lược, lật đổ chế độ diệt chủng của Pol Pot, giải phóng hoàn toàn Kampuchea khỏi họa diệt vong. Tất cả vì “Dĩ Bất Biến”: Việt Nam phải trường tồn.

2- Ứng Vạn Biến 2: Vừa đánh tiếng với thế giới về sự xâm lược của Trung Quốc, vừa chủ động không đưa quân vào lãnh thổ nước Trung Quốc “cộng sản anh em” truy sát tàn quân Trung Quốc chiếm lấy Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông; từ chối không noi gương Lý Thường Kiệt xưa kia (vừa công bố Phạt Tống Lộ Bố Văn vừa chủ động đưa quân vào lãnh thổ nước Trung Hoa “thiên triều” đánh chiếm Khâm Châu, bức hạ Liêm Châu, thu nạp Bạch Châu, san thành bình địa Ung Châu, tàn phá Tân Châu). Tất cả vì “Dĩ Bất Biến”: Việt Nam phải trường tồn.

3- Ứng Vạn Biến 3: Tham gia tổ chức ASEAN mà tiền thân là SEATO Tổ Chức Liên Phòng Đông Nam Á (đứa con sinh sản vô tính từ Liên Minh Phòng Thủ Bắc Đại Tây Dương NATO), đầy thù địch (không những gởi quân sang tham chiến tại Việt Nam dưới ngọn cờ hiệu triệu của Mỹ mà còn cho Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự để xuất kích các cuộc oanh tạc tàn phá “Bắc Việt”, và sau khi tất cả tháo chạy lạch bạch như vịt khỏi Việt Nam thì cho các phiến quân hải ngoại đến lập căn cứ để tung các “Kinh Kha” đột nhập vào Việt Nam để phá hoại hòa bình ổn định của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam). Tất cả vì “Dĩ Bất Biến”: Việt Nam phải trường tồn.

4- Ứng Vạn Biến 4: Noi gương Phong Trào Perestroika của “đàn anh” Liên Xô để tạo ra Tiến Trình Đổi Mới của riêng Việt Nam, điềm nhiên chứng kiến nước “cộng sản anh em” Liên Xô bị Perestroika làm cho bị tiêu diệt, rồi tự tin thúc đẩy Đổi Mới làm bệ phóng cho Việt Nam Cộng Sản trở thành đầu kéo duy nhất của chủ nghĩa xã hội không có toa tàu nối đuôi. Tất cả vì “Dĩ Bất Biến”: Việt Nam phải trường tồn.

5- Ứng Vạn Biến 5: Mở rộng cửa bang giao hữu hảo với tất cả các cường quốc tư bản từng là đại thù, khép bớt cửa với cường quốc bá quyền từng là hữu hảo. Tất cả vì “Dĩ Bất Biến”: Việt Nam phải trường tồn.

6- Ứng Vạn Biến 6: Chủ động đề ra học thuyết kinh tế “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” để phát triển kinh tế cộng sản trong môi trường toàn cầu tư bản. Tất cả vì “Dĩ Bất Biến”: Việt Nam phải trường tồn.

7- Ứng Vạn Biến 7: Biến chủ nghĩa cộng sản thành tư tưởng chính trị chủ đạo của trị quốc theo đường hướng dân chủ xã hội chủ nghĩa của thời đại mới, thay cho các vai trò nguyên thủy, nghĩa là nay không đấu tranh giai cấp vì giai cấp công nhân ở mọi nơi không màng gì đến đấu tranh giai cấp, không theo phe nhóm chống đối chủ nghĩa tư bản như Khối Xã Hội Chủ Nghĩa và các Quốc Tế Cộng Sản vì toàn bộ các nhóm đã tiêu vong mà Việt Nam chẳng chống chủ nghĩa tư bản, không hô hào thế giới đại đồng vì thế giới vĩnh viễn không bao giờ đại đồng trong khi Việt Nam không bao giờ dại dột đứng lên hô hào như vậy, không kêu gọi vô sản các nước đoàn kết lại vì chẳng vô sản nào còn nghe theo trong khi Việt Nam chẳng hề muốn lãnh đạo dưỡng nuôi bảo bọc vô sản các nước, v.v. Tất cả vì “Dĩ Bất Biến”: Việt Nam phải trường tồn.

Và còn nhiều các “ứng vạn biến” khác.

Tuy nhiên, các “ứng vạn biến” do chưa trên quy mô đầy đủ toàn diện, khiến hạn chế tầm phát triển suông sẻ của Việt Nam, thậm chí đã và đang đẩy Việt Nam tiến gần hơn đến miệng vực của trì trệ, thất bại. Tất cả những suy đồi suy sụp suy vi qua các đại án kinh tế đang hằn vết nhơ lên lá cờ chủ soái của Đảng là do những sai lầm mang tên “không bao giờ áp dụng ứng vạn biến trong dụng nhân” mà ra.

Phần dưới đây liên quan đến “ứng vạn biến” trong dụng nhân như mẫu ghép cuối cùng nhưng lại là quan trọng nhất vì là phần ghép đế móng của tòa tháp chế độ mà lẽ ra đã phải được ghép đầu tiên và trước hết.

C) Trị Quốc Theo Mô Hình Proxy Governance Của Hoàng Hữu Phước

Từ bản chất Hồ Chí Minh đã nêu trên ở phần V.A.1. , từ cẩm nang trị quốc mang tên “Dĩ Bất Biến, Ứng Vạn Biến” của Hồ Chí Minh, và từ chính thực tế dụng nhân của Hồ Chí Minh, có thể khẳng định rằng việc trị quốc theo mô hình dụng nhân sau đây của Hoàng Hữu Phước hoàn toàn tương hợp, nhất là khi thực tế hiện nay chứng minh toàn bộ các lãnh đạo cộng sản cấp cao ở tất cả các mặt trận của nền kinh tế quốc dân đều chỉ thuộc một trong 11 hạng gồm

(a) trung kiên với Đảng,

(b) không có tì vết,

(c) tội phạm bị phát hiện,

(d) tội phạm tiềm tàng sẽ bị phát hiện trong tương lai gần hoặc xa hay rất xa,

(e) phạm tội nhưng không bao giờ thành tội phạm,

(f) không bao giờ thỏa hiệp với tiêu cực nhưng không bao giờ tố giác tội phạm,

(g) thực tâm không xem chủ nghĩa cộng sản là lý tưởng,

(h) không bao giờ có tâm thức “phục vụ quốc gia dân tộc”,

(i) xem kiếm tiền là mục đích chính của mọi chức vụ đảm nhiệm,

(j) không có chồng/vợ/con có “gia giáo” tức đã không có năng lực “tề gia”, và

(k) không bao giờ có danh thanh liêm chí công vô tư tức đã không hề “tu thân”.

Khi rõ ràng rằng cả 11 hạng cán bộ cộng sản nêu trên tất nhiên không mang bản chất Hồ Chí Minh, không là người giỏi khiến chưa từng có ai là nhân tài – kể cả nhân tài trong giỏi phát hiện và giỏi diệt trừ tham nhũng – từ khi thống nhất đất nước cho đến nay, và do đó tất nhiên những cán bộ này không thể sử dụng thành công cẩm nang trị quốc của Hồ Chí Minh, thậm chí có khi tích cực “ứng vạn biến” chỉ để phục vụ lợi ích nhóm cán bộ cấp cao và quyền lợi cá nhân cán bộ cấp cao, rời xa vĩnh viễn “dĩ  bất biến”, đặt chế độ cộng sản chủ nghĩa đối diện với nguy cơ bị diệt vong từ sự bất mãn của người dân trước sự thật rằng các lãnh đạo ở Bộ Chính Trị, ở Trung Ương và ở tất cả các tỉnh thành trong thời đại “mở cửa hội nhập” đều chưa có ai hữu tài hữu dụng nổi bật công khai để dân chúng thán phục như “nhân tài” cả – trừ nhân vật Nguyễn Phú Trọng.

1- Mô Hình Hoàng Hữu Phước:

Mô hình trị quốc Hoàng Hữu Phước tức mô hình national proxy governance mang yếu tố “dĩ bất biến, ứng vạn biến” bao gồm 5 điểm căn bản sau:

a) Dĩ Bất Biến: Đảng Cộng Sản thống lĩnh các mặt tư tưởng chính trị, thể chế chính trị, chủ trương, hoạch định đường lối, chính sách chiến lược quốc gia trong đối nội và đối ngoại, với mô hình quyền lực Đảng từ trung ương (Bộ Chính Trị và Trung Ương Đảng) đến địa phương (thành ủy, tỉnh ủy; xóa bỏ các cấp chính trị “ủy” ở quận/phường/xã).

b) Dĩ Bất Biến:Đảng Cộng Sản trực tiếp thống lĩnh các lực lượng vũ trang quốc gia.

c) Dĩ Bất Biến: Đảng Cộng Sản trực tiếp thống lĩnh mặt trận ngoại giao.

d) Ứng Vạn Biến: Toàn bộ ban lãnh đạo chính quyền đối với các mặt lãnh đạo chính phủ trung ương (từ Thủ Tướng đến các Bộ Trưởng – trừ các Bộ Quốc Phòng, Công An, và Ngoại Giao), lãnh đạo nhà nước địa phương (các ủy ban nhân dân và các hội đồng nhân dân các cấp) đều do người giỏi ngoài đảng đảm trách. Người giỏi ngoài đảng phải tự ứng cử, ra tranh cử, được người dân bầu lên qua các cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức theo các luật hiện hành có liên quan. Người giỏi trong đảng cũng phải tự ứng cử, ra tranh cử, nếu được Đảng cho phép và nếu chỉ có các chức vụ trong Đảng, được người dân bầu lên qua các cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức theo các luật hiện hành có liên quan. Đối với tranh cử vào Quốc Hội, những người giỏi ngoài đảng tự ứng cử và những người giỏi trong đảng tự ứng cử khi đắc cử sẽ tiến hành bầu ra ban lãnh đạo Quốc Hội, lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo chính phủ từ những nghị sĩ vừa đắc cử chứ không theo danh sách khống chế đề ra bởi Bộ Chính Trị nhưng chưa hề có ai trong Bộ Chính Trị phải chịu trách nhiệm về nhân sự do mình đề cử.

e) Ứng Vạn Biến: Tuyên bố ghi ơn và chấm dứt vai trò lịch sử của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

2- Nhị Ưu Việt Của Mô Hình Hoàng Hữu Phước Tức Mô Hình Lãnh Đạo Ủy Nhiệm National Proxy Governance:

a) Điểm ưu việt thứ nhất: Chức năng được phân định

Với thực tế từ 30-4-1975 cho đến nay chỉ chứng kiến sự suy đồi của quá nhiều quan chức và tướng lĩnh mà tất cả đều là đảng viên, do Đảng giáo dục rèn luyện và do Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu, đã chứng minh:

(i) Đảng viên không thể là nhân tài chỉ với sự giáo dục của Đảng mà không cần có sự giáo dục tự thân, của cha mẹ – nếu thủa ấu thời còn cha ẹm –  hay bậc trưởng thượng trong gia đình;

(ii) Đảng không thể thay cha mẹ hay bậc trưởng thượng trong gia đình đảng viên để giáo dục tư cách nhân cách con người ngay từ tuổi ấu thơ của đảng viên;

(iii) Đảng không có lực lượng đảng viên người tài để có thể sử dụng đảng viên nắm các chức vụ quản trị nhà nước rất đa dạng đa ngành trong hoàn cảnh mới của Việt Nam;

(iv) Đảng đã thất bại trong giám sát kỷ cương cán bộ do chính Đảng rèn luyện, đầu tư, phân công;

(v) Đảng không thể gạt phần dụng nhân ra khỏi cẩm nang “ứng vạn biến” trong trị quốc của lãnh tụ Hồ Chí Minh;

(vi) Đảng đã bất lực không xử lý được đảng viên sai phạm trong rất nhiều năm qua do cơ chế bảo vệ đảng viên của chính Đảng; và

(vii) Đảng không có quyền để Đảng bị ô danh vì chính sự dụng nhân “bất biến” của Đảng.

Với mô hình ủy trị quốc gia national proxy governance, điểm ưu việt thứ nhất sẽ là sự cộng hưởng của 4 thành tố gồm:

– Đảng thực hiện phần chức năng Đảng thực sự hùng mạnh, có kinh nghiệm tuyệt đối, và có thể chịu trách nhiệm (trực tiếp thống lĩnh các mặt tư tưởng chính trị, thể chế chính trị, chủ trương, hoạch định đường lối, chính sách chiến lược quốc gia trong đối nội và đối ngoại, với mô hình quyền lực Đảng từ trung ương đến địa phương);

– Đảng chấm dứt trực tiếp điều hành Nhà Nước tức chấm dứt nắm quyền lực Nhà nước ở các cơ quan Nhà Nước và Chính Phủ, để tập trung thực hiện phần chức năng Đảng chưa bao giờ có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy đã từng đạt hiệu quả trong thời đại mới: giám sát kỷ cương trị quốc;

– Những chức sắc ngoài Đảng khi sai phạm bị sự giám sát của Đảng đưa ra chịu tội trước pháp luật sẽ không làm Đảng bị ô danh, nâng cao vị thế của Đảng trong nhận thức của người dân, triệt tiêu hoàn toàn các cáo buộc tiêu cực về sự dung túng của Đảng đối với đảng viên; và

– Người giỏi có cơ hội tham chính mà không cần vào Đảng, khiến đất nước có cơ hội có được người tài, và sử sách có thêm danh mục các bậc hiền tài từ sự “ứng vạn biến” này trong khâu trọng yếu của Đảng: dụng nhân. 

b) Điểm ưu việt thứ hai là sẽ có sự lột xác của giới tinh hoa chính trị Việt Nam như phân tích trong bài Giới Tinh Hoa Chính Trị Việt Nam Sẽ Phải Thay Đổi Năm 2021 , biến giới này từ trạng thái vô hình vô cảm vô tâm vô tích sự từ 30-4-1975 đến nay sẽ trở thành lực lượng ưu tú chuyên nghiệp có trách nhiệm của Đảng trong chức năng thống lĩnh mặt trận tư tưởng và thể chế quản lý thượng tầng và giám sát từ thượng tầng. Tương tự, như thấu thị chiến lược của Hoàng Hữu Phước, sẽ phải nhanh chóng có hệ Chuẩn Mực 46 Của Nghị Sĩ Việt Nam một khi người giỏi ngoài Đảng và người giỏi trong Đảng tự ra ứng cử Quốc Hội mà không dưới ô dù của Đảng hay Mặt Trận Tổ Quốc, để trở thành nghị sĩ và từ đó bước lên vị trí lãnh đạo Quốc Hội, lãnh đạo chính phủ, lãnh đạo Nhà Nước đường hoàng trong tư thế và tư cách phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, thực hiện các định hướng chủ đạo của Đảng và dưới sự giám sát của Đảng.

Dĩ bất biến, ứng vạn biến” luôn là cẩm nang tự có trong vô thức của tất cả những nhân vật thành công – hoặc muốn thành công – trong lịch sử loài người. Đó là tinh thần linh hoạt linh động ứng phó ứng đối xử trí xử lý hoàn cảnh vì mục đích đã được xác quyết.

Song, Hồ Chí Minh là người đầu tiên và duy nhất của loài người minh định công khai cẩm nang ấy thành ngôn từ mang tính chỉ thị thấu thị truyền lưu, biến “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” thành phát kiến riêng thuộc về Hồ Chí Minh, người con kiệt xuất nhất của nước Việt.

Phát kiến ấy của vị lãnh tụ cộng sản Việt Nam duy nhất lừng danh duy nhất vĩ đại  Hồ Chí Minh, do đó, không thể không được tuân thủ áp dụng triệt để bởi những đảng viên cộng sản được cho là đang tích cực học tập theo lời dạy của chính Người.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Nghị-sĩ Khóa XIII, Nhà Tư-Tưởng và Lý Luận Cộng-Sản Dân-Tộc Thiên Khổng, Nhà Sử Nghiên Chính-Trị

Liên kết tham khảo các bài viết của Hoàng Hữu Phước theo thứ tự xuất hiện trước-sau trong bài trên:

Tài Năng Thấu Thị: Tin Quảng Bá  20-10-2018

Khiêm Tốn: Khiêm Tốn  22-02-2015

Làm Chính Trị: Làm Chính Trị & Làm Loạn  12-01-2017

Gã Phụ Bếp Họ Hồ: Hồ Chí Minh – Cách Mạng Tháng Tám – Giải Phóng Miền Nam 11-9-2015

Ngọn Cờ Vatican: Thư Gửi Đức Giáo Hoàng Francis  01-8-2017

Chính Trị: Chính Trị  14-01-2016

Tự Do-Dân Chủ: Thế nào là Tự Do – Dân Chủ 24-3-2014

Đảng Chính Trị Tức Chính Đảng: Việt Nam Cộng Hòa – Đảng Chính Trị 18-9-2017

Zero Đảng, Độc Đảng, Lưỡng Đảng: Việt Nam Cộng Hòa Có “Đa Đảng” Không? Mỹ Có “Đa Đảng” Không?  18-5-2013

Luật Biểu Tình: Nghị Sĩ Hoàng Hữu Phước Nói Về “Luật Biểu Tình” Bài 2: Vấn Đề Pháp Luật. 14-4-2015

Tứ Đại Ngu: Tứ Đại Ngu 05-8-201

Hoàng Hữu Phước Đối Đầu Với Chu Văn An: Hoàng Hữu Phước vs Chu Văn An: Sự Thật Về Nội Dung Đối Đáp Hùng Biện Trực Diện Của Hoàng Hữu Phước Với Các “Nhà Báo”  25-4-2019

Phong Trào Đông Du:  Để Việt Nam Trở Thành Cường Quốc: Hão Huyền Nhật Bản  28-02-2016

Đi Tắt Đón Đầu: Đi Tắt Đón Đầu  08-9-2017

Lập Gia Đình:  Đám Cưới  09-12-2015

Nhà Chí Sĩ Lê Quốc Túy (Lê Phục Thiện):  Để Việt Nam Trở Thành Cường Quốc: Hão Huyền Nhật Bản  28-02-2016

Từ Chương: Thế Nào Là “Từ Chương”  25-11-2015

Nhân Tài Nước Việt Trần Chung Ngọc: Trần Chung Ngọc

Đừng Nghe Những Gì Cộng Sản Nói Mà Hãy Nhìn Những Gì Cộng Sản Làm:  Vấn Đề “Phi Chính Trị Hóa Quân Đội” và Nội Hàm “Đảng Lãnh Đạo Quân Đội Tuyệt Đối, Trực Tiếp, Toàn Diện”  26-12-2014

Đừng Nghe Những Gì Bọn Chống Cộng Nói Mà Cũng Đừng Nhìn Những Gì Bọn Chống Cộng Làm:  NHỮNG LẬP LUẬN KỲ QUÁI CỦA NGƯỜI TỰ XƯNG LÀ TS TRẦN MINH HOÀNG  25-01-2014

Quân Đội Viễn Chinh Gần Triệu Người Từ Mỹ, Đại Hàn, Úc, Thái, Phi, New Zealand: Tứ Trụ Bắc Việt  19-7-2016

Quỳ Ôm Gối: Quỳ Gối Hay Quỳ Đầu  11-9-2016

Cộng Sản Buộc Phải Trở Thành Thế Lực Chính Trị Còn Lại Duy Nhất Ở Việt Nam: Luận Về “Đa Đảng” 27-6-2019

Tham Nhũng: Diệt Tham Nhũng 30-10-2015

Nguyễn Phú Trọng: Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng 14-02-2016

Nhà Báo: Nhà Báo – Vì Đâu Nên Nỗi Thế Này  05-8-2016

Đảng Loạn: Bài Viết Mong Được Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng Biết Đến: Đảng Loạn 14-12-2016

Bọn Con Nít Làm Chính Trị: Bọn Con Nít Làm Chính Trị  06-3-2017

Các Công Chức Trẻ Vừa Tốt Nghiệp Đại Học Là “Trí Thức Trẻ”: Bộ Trưởng Nội Vụ Nguyễn Thái Bình  14-9-2016

Nhà Trí Thức: Thế Nào Là Nhà Trí Thức 14-02-2014

Quyền Lưc Nhũn Xèo: Quyền Lực Nhũn Xèo 09-11-2017

Dĩ Bất Biến, Ứng Vạn Biến: Hội Chứng “Đổi Mới Tư Duy”  27-10-2015, và  Thay Đổi Hệ Thống Chính Trị Tại Việt Nam  02-02-2016

Người Giỏi, Nhân Tài, Hiền Tài: Hiền Tài May 22, 2019

Thay Đổi Hệ Thống Chính Trị Tại Việt Nam: Thay Đổi Hệ Thống Chính Trị Tại Việt Nam

Phạt Tống Lộ Bố Văn: 900 Năm Hùng Khí Thần Uy 30/12/1075-30/4/1975 30-5-2011

Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam: Thư Gởi Chủ Tịch Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn  11-10-2017

Giới Tinh Hoa Chính Trị Việt Nam Sẽ Phải Thay Đổi: Giới Tinh Hoa Chính Trị Việt Nam Sẽ Phải Thay Đổi Năm 2021

Chuẩn Mực 46: Chuẩn Mực 46 Của Nghị Sĩ Việt Nam  04-02-2018

Both comments and trackbacks are currently closed.